THU THẬP VÀ ĐÁNH GIÁ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU
VỀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ Ở VIỆT NAM
(GIAI ĐOẠN 2019-2021)
PGS.TS. Phạm Lan Oanh
Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam
TS. Vũ Diệu Trung
Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam
ThS. Nguyễn Thị Hạnh
Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam
1. Giới thiệu
Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam (Vietnam National Institute of Culture and Arts Studies - VICAS) là đơn vị sự nghiệp khoa học, trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, có chức năng nghiên cứu, tư vấn chính sách và chiến lược, triển khai hoạt động khoa học về văn hóa, nghệ thuật, di sản văn hóa phi vật thể, gia đình, văn hóa trong du lịch, văn hóa trong thể thao, đào tạo sau đại học về văn hóa, nghệ thuật và văn hóa du lịch...
Về lĩnh vực “di sản văn hóa phi vật thể” (DSVHPVT), VICAS phụ trách thực hiện các dự án DSVHPVT trong Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa do Chính phủ Việt Nam tài trợ từ năm 1997 đến nay. Hàng năm, chương trình DSVHPVT tài trợ cho từ 10 đến 15 cán bộ của VICAS để thực hiện các dự án về bảo vệ và kiểm kê DSVHPVT với tổng kinh phí trong khoảng từ 50.000 - 80.000 USD. Trung tâm Dữ liệu Di sản Văn hóatrực thuộc VICAS được thành lập từ năm 2003, với chức năng nghiên cứu, sưu tầm,lưu trữ phim, ảnh, âm thanh và văn bản về DSVHPVT. Trong hơn 20 năm thực hiện chương trình này, đã có khoảng 1.000 dự án được triển khai, lưu trữ hơn 4.000 cuốn băng các loại, tổng thời lượng khoảng 25.000 phút, khoảng 800 album ảnh, 400 băng cassette và khoảng gần 1.000 báo cáo khoa học về các DSVHPVT của 54 dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, VICAS còn tổ chức hàng chục hội nghị quốc tế và quốc gia về bảo vệ DSVHPVT, đã xuất bản nhiều công trình sưu tầm, nghiên cứuvề DSVHPVT.
Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế về Di sản Văn hóa Phi vật thể của khu vực châu Á - Thái Bình Dương ((International Research Centre for Intangible Cultural Heritage in the Asia - Pacific Region - IRCI) là đơn vị cấp 2 của Văn phòng UNESCO, có trụ sở tại Nhật Bản. Từ năm 2013, thông qua việc triển khai dự án “Thiết lập Bản đồ Nghiên cứu cho việc Bảo tồn các Di sản Văn hóa Phi vật thể ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương”, IRCI đã hợp tác với các nước thành viên cũng như các nghiên cứu viên trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, thu thập nhiều loại thông tin nghiên cứu.
Từ năm 2019-2021, VICAS đã hợp tác với IRCI để thu thập dữ liệu về các công trình nghiên cứu di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam, thông qua chương trình “Thu thập dữ liệu nghiên cứu bền vững để bảo vệ Di sản Văn hóa phi vật thể ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương”. Tại Việt Nam, VICAS đã thực hiện công việc này với sự tham gia của 5 đối tác là: Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam; Viện Dân tộc học; Trường Đại học Văn hóa Hà Nội; Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Hà Nội); Viện Nghiên cứu Văn hóa. Các đối tác thành viên đã đóng góp bằng cách lựa chọn, gửi sản phẩm công trình nghiên cứu của đơn vị mình cho VICAS để thực hiện tổng hợp, thu thập dữ liệu.
Đến tháng 3 năm 2022, báo cáo kết quả “Thu thập dữ liệu nghiên cứu về di sản văn hoá phi vật thể ở Việt Nam, giai đoạn 2019-2021” đã được tổ chức IRCI xuất bản, in chung trong công trình mang tên: “Report of researched data collection on intangible cultural heritage of vietnamese ethnic groups” (Sustainable Research Data Collection for ICH Safaguarding in the Asia-Pacific Region Project Report - FY 2019-2021. ISBN: 978-4-9909775-3-5). Đồng thời, báo cáo dưới phiên bản PDF đã được niêm yết công khai trên trang web của tổ chức IRCI, theo đường link: https://www.irci.jp/report_publication/project-report-sustainable-research-data-collection-for-ich-safeguarding-in-the-asia-pacific-region-published/?catid=4.
Ngoài ra, 140 tóm tắt bài viết/công trình nghiên cứu của VICAS và các đối tác thành viên ở Việt Nam (xuất bản từ năm 2016 đến năm 2021) đã được đăng tải lên trang Cơ sở Dữ liệu Nghiên cứu của IRCI (là kênh thông tin của Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế về Di sản Văn hóa Phi vật thể ở Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương), có thể tìm đọc theo chỉ dẫn trên đường link sau: https://www.irci.jp/ichdb/.
Kết quả của công việc thu thập và đánh giá dữ liệu nghiên cứu về di sản văn hoá phi vật thể ở Việt Nam sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu văn hoá có sự đánh giá, nhìn nhận lại về tình hình nghiên cứu VHPVT hiện nay. Từ đó góp phần đưa ra các định hướng và dự báo xu thế của nghiên cứu VHPVT ở Việt Nam trong tương lai. Đồng thời, đối với tổ chức IRCI, trên cơ sở các dữ liệu thu thập được từ một số nước đối tác (trong đó có Việt Nam) sẽ giúp mở rộng trọng tâm của nghiên cứu “Thu thập dữ liệu nghiên cứu bền vững để bảo vệ Di sản Văn hóa Phi vật thể (ICH) ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương”, từ đó góp sức cho bảo tồn VHPVT trong khu vực, thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu và quảng bá Công ước 2003 của UNESCO.
2. Những kết quả đã đạt được
Quá trình thu thập dữ liệu, tuyển chọn, nghiên cứu và biên tập được tiến hành trong 3 năm từ 2019 đến năm 2021 với các bước cụ thể như sau: Chọn lựa, tập hợp các bài nghiên cứu/bài viết/công trình và biên tập rút gọn nội dung. Sau đó, dịch thuật, hiệu đính; Phân loại, nhập dữ liệu và viết báo cáo.
Phương pháp thu thập dữ liệu. Quá trình sưu tầm, tổng hợp các công trình nghiên cứu qua các năm của lĩnh vực DSVHPVT có đặc thù riêng, do vậy vận dụng các phương pháp khoa học liên ngành và chuyên ngành là cần thiết. Từ đó, sử dụng các công cụ và biện pháp thích hợp để tìm kiếm, chọn lọc, thống kê, tổng hợp các dữ liệu số trên các kênh website online của các nhà xuất bản, tạp chí chuyên ngành trong nước, các dữ liệu văn bảnin ấn từ các thư viện trong nước, từ đó đã tập hợp được khá đầy đủ và toàn diện các công trình về DSVHPVT trong 3 năm trở lại đây. Trên cơ sở tư liệu đã tập hợp, tiến hành phân tích các thông số, dữ liệu, lập bảng biểu phân loại, đánh giá các con số để đưa ra được các nhận xét trung thực, khách quan và khoa học.
Kết quả thu thập dữ liệu
Về số lượng: Các công trình nghiên cứu thuộc về 06 lĩnh vực qua các năm như sau:
Lĩnh vực/Hình thức DSVHPVT |
Năm 2019 |
Năm 2020 |
Năm 2021 |
Tổng số |
1) Các truyền thống và biểu đạt truyền khẩu, trong đó ngôn ngữ là phương tiện của di sản văn hóa phi vật thể; |
17 |
12 |
7 |
36 |
2) Nghệ thuật trình diễn; |
39 |
37 |
9 |
84 |
3) Tập quán xã hội, tín ngưỡng và các lễ hội; |
109 |
97 |
43 |
250 |
4) Tri thức và tập quán liên quan đến tự nhiên và vũ trụ; |
5 |
12 |
3 |
20 |
5) Nghề thủ công truyền thống. |
14 |
23 |
5 |
42 |
6) Lĩnh vực DSVH PTV nói chung. |
32 |
27 |
15 |
74 |
Tổng số |
216 |
208 |
82 |
506 |
Về nội dung:
Chủ đề nghiên cứu: Trên cơ sở phân loại thành 6 lĩnh vực (1):
(a)Các truyền thống và biểu đạt truyền khẩu, trong đó ngôn ngữ là phương tiện của di sản văn hóa phi vật thể; (Lĩnh vực 1)
(b)Nghệ thuật trình diễn; (Lĩnh vực 2)
(c) Tập quán xã hội, tín ngưỡng và các lễ hội; (Lĩnh vực 3)
(d)Tri thức và tập quán liên quan đến tự nhiên và vũ trụ; (Lĩnh vực 4)
(e)Nghề thủ công truyền thống. (Lĩnh vực 5)
(f) Lĩnh vực DSVH PTV nói chung. (Lĩnh vực 6)
Chúng tôi đã tổng hợp các kết quả thu thập được và đưa ra phân tích, đánh giá số liệu theo các nội dung, chủ đề, lĩnh vực học thuật, xu hướng nghiên cứu VHPVT ở Việt Nam hiện nay.
Lĩnh vực học thuật:
Lĩnh vực 1: Các truyền thống và biểu đạt truyền khẩu, trong đó ngôn ngữ là phương tiện của di sản văn hóa phi vật thể.
Năm 2019 có 17 công trình (gồm 16 bài tạp chí và 01 cuốn sách) bàn về chủ đề này như: ngôn ngữ thơ, tục ngữ, thành ngữ, dân ca, ca dao, của các vùng miền ở Việt Nam, phương ngữ, truyện thơ dân gian hoặc truyện cười,... Ngoài ra, các lĩnh vực văn hoá dân gian, văn hoá tộc người, không gian văn hoá, lễ nhạc, văn nghệ dân gian tộc người, bảo tồn giá trị văn hoá… cũng được các công trình thể hiện.
Năm 2020: Có 12 công trình (gồm 11 bài tạp chí và 01 cuốn sách xuất bản) đề cập đến các nội dung như: ngôn ngữ các dân tộc, văn bản dân ca Lượn, truyện cổ, văn học dân gian, truyền thuyết, sử thi, tục ngữ, ca dao, ví giặm..., hoặc đặc trưng về tín ngưỡng, tri thức văn hoá được thể hiện qua phương tiện biểu đạt là ngôn ngữ cũng đã xuất hiện ở một số công trình. Trong đó, các dân tộc được nghiên cứu ở lĩnh vực 1 là: Khơ Mú, Tày, Giáy, Đrôn, Việt, Thái, Ê Đê. Vấn đề khai thác, bảo tồn ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, góp phần phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở địa phương cũng đã được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu.
Năm 2021 (tính đến hết tháng 6): Có 7 công trình (gồm 5 bài tạp chí và 2 cuốn sách)đề cập đến chủ đề này như: ngôn ngữ dân tộc, sử thi, huyền thoại, ca dao, truyện cổ tích, hát ru,….
Đối sánh dữ liệu qua 3 năm có thể thấy xu hướng nghiên cứu về lĩnh vực các truyền thống và biểu đạt truyền khẩu, trong đó ngôn ngữ là phương tiện của di sản văn hóa phi vật thể có sự giảm đi, tuy không nhiều. Về mặt ngôn ngữ và ngữ văn dân gian có sự thu hút nhất định, là sự chắt lọc của văn hoá dân gian như: ca dao, dân ca, tục ngữ, văn hoá phương ngữ, văn hoá vùng, miền, khu vực mang dấu ấn khá đậm nét của các tác giả. Số lượng các công trình của lĩnh vực 1 qua các năm chiếm tỷ lệ từ trên 5% đến gần 10% trong tổng số các công trình thu thập (7,8% năm 2019, 5,8% năm 2020 và 8,5% năm 2021), trong đó các bài in trên tạp chí chiếm đa số so với các công trình xuất bản.
Lĩnh vực 2: Nghệ thuật trình diễn.
Năm 2019, có tổng số 39 công trình đề cập đến lĩnh vực này, cụ thể là gồm các nội dung như: âm nhạc dân gian, nhạc cụ dân tộc, dân ca, hò, hát, lý, vè, diễn xướng lễ hội, cồng chiêng, nghệ thuật xoè Thái, múa lễ thức, nghi lễ, Then,… trong đó mảng âm nhạc có nhiều công trình hơn cả. Các loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian khác như ả đào, cải lương, hát Bội, hát Tuồng, hát Văn, múa rối nước… cũng đã được nghiên cứu công phu. Ngoài ra, các vấn đề về bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật biểu diễn như âm nhạc các dân tộc ở Việt Nam cũng được đề cập đến.
Năm 2020, có 37 công trình nghiên cứu thuộc lĩnh vực này, xoay quanh các chủ đề về: diễn xướng âm nhạc, âm nhạc dân gian, dân ca, Then, hát Xoan, hát Soọng cô, hát bài chòi, hò khoan, Khan, sử thi, trò diễn dân gian, hát Xẩm, khắp Nôm, xoè Thái, khèn bè, múa trống đôi, quan họ, múa, múa dân gian, hát Đúm, cồng chiêng,…của các dân tộc như: người Mường, Pu Péo, Sán Dìu, Ê Đê, Thái, Chăm H'roi, Ba Na, Mạ, người Cor, H’rê, Khơ Me. Vấn đề bảo vệ, phát huy di sản VHPVT thuộc lĩnh vực nghệ thuật trình diễn hoặc khai thác di sản VHPVT trong phát triển kinh tế, du lịch cũng đã xuất hiện ở nhiều công trình.
Năm 2021 (tính đến hết tháng 6), có 9 công trình được thu thập. Các loại hình nghệ thuật trình diễn được đề cập như: hát xoan, cải lương, sân khấu, múa dân gian, chèo, xoè Thái, hò… gắn với các nội dung về bảo tồn, phát huy hay giáo dục di sản.Đối sánh giữa các năm có thể thấy, lĩnh vực nghệ thuật trình diễn vẫn đang thu hút được số đông các công trình nghiên cứu của các tác giả. Qua 3 năm, số lượng công trình nghiên cứu về lĩnh vực nghệ thuật trình diễn chiếm tỷ lệ từ 10% đến gần 20% trong tổng số các công trình thu thập (năm 2019 là 17,9%, năm 2020 là 17,8%, năm 2021 là 10,97%).
Lĩnh vực 3: Tập quán xã hội, tín ngưỡng và các lễ hội
Năm 2019, có 109 công trình đề cập đến lĩnh vực này gồm 3 nhóm: 1. Nhóm các công trình liên quan đến tập quán xã hội, luật tục, đời sống phong tục của các dân tộc Việt Nam (có 22 dân tộc được nhắc đến là: Mông, Raglai, Pa Cô, người Việt, Ê Đê, Khơ Me, Tà Ôi, Tày, Nùng, Mơ Nông, Mường, Si La, Hoa, Cơ Tu, Pa Dí, Dao, Sán Dìu, Ve, Mnông, Lào, Thái, Hà Nhì). Ngoài ra, văn hoá biển đảo, văn hoá nước cũng được đề cập đến qua tri thức địa phương. 2. Nhóm các công trình đề cập đến tín ngưỡng, nghi lễ, đời sống tâm linh và các vấn đề đặt ra về thực trạng, giải pháp, chính sách bảo tồn; 3. Nhóm các công trình đề cập đến các lễ hội, lễ tết.
Năm 2020, có 97 công trình đề cập đến lĩnh vực tập quán xã hội, tín ngưỡng và các lễ hội của các dân tộc Việt Nam.
Năm 2021 (tính đến hết tháng 6), có 43 công trình liên quan, xoay quanh chủ đề về phong tục, tập quán xã hội, tín ngưỡng, lễ hội.
Đối sánh qua các năm có thể thấy, lĩnh vực tập quán xã hội, tín ngưỡng và các lễ hội đã thu hút được nhiều nhất các số lượng công trình nghiên cứu. Không chỉ bởi chủ đề này rất rộng và bao trùm lên các mặt của đời sống văn hoá tinh thần, mà còn bởi sự phong phú, đa dạng trong lĩnh vực này của VHPVT các dân tộc ở Việt Nam như một ẩn số thú vị cần được nghiên cứu, tìm hiểu. Số lượng các công trình thuộc lĩnh vực 3 này chiếm từ 46% đến trên 50% trong tổng số các công trình thu thập. Năm 2019, số lượng công trình lĩnh vực 3 chiếm 50%, năm 2020 chiếm 46,63%, năm 2021 chiếm 52,4%.
Lĩnh vực 4: Tri thức và tập quán liên quan đến tự nhiên và vũ trụ
Năm 2019, có 5 công trình đề cập đến lĩnh vực này viết về một số chủ đề quen thuộc như tri thức trong trồng trọt, chăn nuôi, canh tác nương rẫy, hốc đá hay tập quán chăm sóc sức khoẻ của dân tộc vùng núi cao.
Năm 2020, có 12 công trình nghiên cứu về lĩnh vực này xoay quanh các nội dung như: tri thức dân gian trong thích ứng khí hậu, trong sử dụng đất, tài nguyên thiên nhiên hay chăm sóc sức khỏe, bảo vệ tài nguyên rừng, . Lĩnh vực nghiên cứu về tri thức và tập quán liên quan đến tự nhiên và vũ trụ trong các công trình chủ yếu đề cập đến các dân tộc thiểu số nói chung và một số dân tộc thiểu số nói riêng như: người Cơ Tu, Dao, người Thái. Các công trình về lĩnh vực này còn khá ít ỏi, nên vẫn đang là chủ đề còn nhiều khoảng trống, cần khuyến khích các nghiên cứu nhiều hơn.
Năm 2021 (tính đến hết tháng 6), có 3 công trình nghiên cứu. Số lượng công trình của năm 2021 chỉ được tính đến hết tháng 6 nên chưa được thể hiện đầy đủ. Do vậy, 3 công trình nghiên cứu về tri thức trong ứng xử như sinh kế tộc người, ứng phó với biến đổi khí hậu hay tri thức hàng hải của cư dân Việt sẽ là những gợi mở nhằm góp phần thu hút hơn nữa các nhà nghiên cứu quan tâm đến lĩnh vực này trong các năm tiếp theo.
Đối sánh qua 3 năm, các công trình thuộc lĩnh vực tri thức và tập quán liên quan đến tự nhiên và vũ trụ còn khá ít ỏi. Lĩnh vực 4 này chỉ chiếm tỉ lệ từ 2,29% (năm 2019) đến 3,66% (năm 2021) và 5,7% (năm 2020). Có thể thấy, đây là lĩnh vực còn nhiều tiềm năng và bỏ ngỏ trong nghiên cứu những năm qua. Trong khi đó, các tri thức, tập quán về tự nhiên, vũ trụ có giá trị rất lớn trong phát triển kinh tế, xã hội của các tộc người. Nếu nghiên cứu, khai thác tốt thì các tri thức này sẽ giúp ích cho cộng đồng trong chinh phục tự nhiên trước những biến đổi khí hậu và những dịch bệnh xảy ra.
Lĩnh vực 5: Nghề thủ công truyền thống
Năm 2019 có 14 công trình nghiên cứu về lĩnh vực này. Trong đó đa phần là nghiên cứu về nghề gốm ở Việt Nam, đặc biệt là gốm của người Chăm. Bên cạnh đó, có những công trình gắn lĩnh vực nghề thủ công truyền thống với vấn đề dân tộc, chính sách, bảo tồn, phát triển di sản VHPVT nói chung; Hoặc các công trình có đề cập đến những làng nghề thủ công truyền thống của các dân tộc, vùng đất.
Năm 2020, có 23 công trình đề cập đến các ngành nghề thủ công truyền thống như: nghề làm tranh dân gian, làng thuốc nam, đúc đồng, làm thúng chai, làm nón, dệt, gốm sứ, chạm khắc gỗ… của các dân tộc ở khắp các vùng miền của Việt Nam. Bên cạnh đó là các công trình đề cập đến các vấn đề của làng nghề, nghề cổ nói chung cũng như gắn với việc phát triển kinh tế, xã hội.
Năm 2021 (tính đến hết tháng 6), có 5 công trình nghiên cứu về lĩnh vực này.
Đối sánh các công trình qua 3 năm cho thấy, lĩnh vực nghề thủ công truyền thống đã nhận được sự quan tâm, chú ý của các học giả trong nước. Số lượng các công trình chiếm tỉ lệ từ 6,4% (năm 2019) đến 11,05% (năm 2020) và 6,09% (năm 2021). Chủ đề xoay quanh việc đánh giá, mô tả các nghề cổ truyền và phân tích tác động của các nghề, làng nghề truyền thống nói chung đối với phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Lĩnh vực 6: Các DSVHPTV nói chung
Năm 2019 có 32 công trình nghiên cứu về các lĩnh vực DSVHPVT nói chung như: văn hoá tộc người, chăm sóc sức khoẻ, vấn đề bảo tồn, phát huy DSVHPVT, văn hoá truyền thống, phát triển du lịch, không gian văn hoá cồng chiêng… Lĩnh vực DSVHPVT nói chung này rất rộng và phong phú, có nhiều chủ đề bao trùm và liên thông với nhau. Các vấn đề DSVHPVT khác như: ẩm thực gắn với lễ hội, các giá trị văn hoá bao gồm lễ hội, trò chơi, trò diễn dân gian, vấn đề bảo vệ rừng, vai trò của người cao tuổi, nghệ nhân, người phụ nữ qua sử thi, nghệ thuật trang trí, nghệ thuật tạo hình, tranh thờ, tranh dân gian, văn hoá biển và ngư dân, bản sắc văn hoá tộc người… cũng đã được các công trình đề cập.
Năm 2020, có 27 công trình về lĩnh vực này như: các vấn đề biến đổi VHPVT ở địa phương, ẩm thực, nghệ nhân, không gian văn hoá, VHPVT từ góc nhìn quản lý văn hoá, nhân học văn hoá, di sản lễ hội văn hoá, du lịch, công ước 2003, văn hoá làng xã, trang phục truyền thống…
Năm 2021 (tính đến hết tháng 6), có 15 công trình về lĩnh vực này.
Đối sánh qua 3 năm có thể thấy, lĩnh vực DSVHPVT nói chung gồm nhiều nội dung được đề cập đến, từ các vấn đề văn hoá truyền thống nói chung của các dân tộc Việt Nam hay chủ đề trong Công ước 2003, đến các nội dung cụ thể như trang phục, ẩm thực, du lịch, tượng gỗ dân gian, nghệ thuật tranh kính… Chủ đề này cũng thu hút được khá nhiều các học giả nghiên cứu, chiếm tỉ lệ từ 6,4% (năm 2019), đến 12,98% (năm 2020) và 18,29% (năm 2021). Như vậy, xu hướng nghiên cứu về các vấn đề VHPVT nói chung này được dự báo là sẽ ngày càng gia tăng trong giới học thuật, bởi mong muốn đóng góp tiếng nói đa dạng về các lĩnh vực VHPVT nói chung của Việt Nam và trên thế giới hiện nay.
Về thể loại:Việc phân loại các di sản văn hoá phi vật thể trong một số trường hợp chỉ mang tính chất tương đối, bởi một số công trình nghiên cứu thu thập được có thể đồng thời xuất hiện trong 2 loại hình, vì vậy sẽ khó cho việc lựa chọn, phân loại theo một đối tượng nghiên cứu nhất định.
Những kết quả về các công trình đã được lựa chọn để IRCI đăng tải
Trên cơ sở dữ liệu đã thu thập được VICAS sẽ lựa chọn những công trình tiêu biểu để IRCI đăng tải. Các công trình được lựa chọn với các tiêu chí:
1. Di sản văn hóa phi vật thể các dân tộc dưới 10.000 người tại Việt Nam.
2. Di sản văn hóa phi vật thể đang cần được bảo vệ khẩn cấp.
3. Chính sách, quản lý di sản văn hóa phi vật thể.
4. Các bài viết khác: giá trị tiêu biểu, các hình thái di sản văn hóa phi vật thể đặc trưng vùng miền, các vấn đề nghiên cứu về DSVHPVT đang được quan tâm.
Kết quả cụ thể như sau:
Năm 2019, lựa chọn 10 công trìnhtiêu biểucủa các cán bộ nghiên cứu làm việc tại VICAS để đăng tải trên IRCI.
Năm 2020, lựa chọn 30 công trình tiêu biểu của VICAS và các đối tácthành viên là Khoa Nhân học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đạihọc Quốc gia Hà Nội) và Viện Nghiên cứu Văn hóa (Viện Hàn lâm Khoa học Xãhội Việt Nam) để tổng hợp và biên tập rút gọn nội dung. Sau đó, tiến hành biêndịch tiếng Anh và nhập dữ liệu trên trang Cơ sở Dữ liệu Nghiên cứu của IRCI.
Năm 2021, VICAS đã lựa chọn, tổng hợp và biên dịch, nhập dữ liệu cho70 công trình tiêubiểu của các cán bộ nghiên cứu làm việc tại VICAS và 3 đối tác thành viên làTrường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hội Văn Nghệ dân gian Việt Nam và Viện Dântộc học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.Đánh giá các kết quả thu thập được trong quá trình thực hiện dự án 2019 - 2021.
Những vấn đề trọng tâm trong nghiên cứu di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam: Sau khi tổng hợp các tư liệu/bài nghiên cứu/công trình nghiên cứu về di sản văn hóa Việt Nam từ năm 2019-2021, chúng tôi thấy rằng, trong những năm gần đây, nghiên cứu di sản văn hóa đi theo 2 hướng chính, đó là:
- Nghiên cứu cơ bản về di sản văn hóa các dân tộc Việt Nam với các mô tả dân tộc học như: (1) Nghiên cứu chuyên sâu về các nghi lễ, nghề thủ công, diễn xướng dân gian, lễ hội truyền thống… của các dân tộc Việt Nam, đặc biệt là tập trung vào các dân tộc dưới 10.000 người; (2) Nghiên cứu tổng quan về văn hóa các tộc người trong đó có di sản văn hóa.
- Nghiên cứu mang tính ứng dụng về di sản văn hóa phi vật thể các dân tộc Việt Nam như: 1) Nghiên cứu chuyên sâu để đưa ra các giải pháp bảo tồn, bảo vệ giá trị di sản văn hóa; 2) Nghiên cứu nhân học/nhân học hình ảnh để nêu ra các vấn đề về di sản văn hóa với mục tiêu bảo tồn, phát huy di sản văn hóa, quảng bá hình ảnh di sản văn hóa Việt Nam với sản phẩm là những bộ phim khoa học, phim nhân học, phim quảng bá giới thiệu hình ảnh di sản văn hóa.
Xu hướng nghiên cứu VHPVT ở Việt Nam
Nhìn chung, xu hướng nghiên cứu VHPVT ở Việt Nam hiện nay có trên tất cả mọi mặt của đời sống văn hoá tinh thần, trong đó đặc biệt ở lĩnh vực 2, 3, 5, 6 là thu hút nhiều học giả quan tâm hơn cả.
Việt Nam có 54 dân tộc, những nghiên cứu cơ bản về di sản văn hóa các dân tộc Việt Nam vẫn được các nhà nghiên cứu quan tâm hàng đầu trong những năm tới nhưng song hành cùng với những nghiên cứu này sẽ là những giải pháp phát huy giá trị của DSVHPVT hướng tới mục tiêu văn hóa là động lực của sự phát triển. Vì vậy, những nghiên cứu trong thời gian tới về di sản văn hóa sẽ có 4 vấn đề như sau:
1. Nghiên cứu và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể gắn với phát triển kinh tế - xã hội.
2. Nghiên cứu và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật gắn với phát triển nguồn nhân lực.
3. Nghiên cứu và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật phải đáp ứng nhu cầu về văn hóa tâm linh của chủ thể văn hóa.
4. Nghiên cứu và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể phải song hành với xây dựng nông thôn mới.
Kết quả thu thập dữ liệu đã phản ánh đúng tình hình nghiên cứu DSVHPVTở Việt Nam hiện nay
Kết quả thống kê phần nào phản ánh đúng nghiên cứu DSVHPVTở Việt Nam hiện nay. Bởi, theo xu hướng chung của thế giới, các loại hình, lĩnh vực, hình thức biểu hiện của DSVHPVT về tri thức dân gian, ngữ văn truyền miệng hay liên quan về mặt ngôn ngữ làm phương tiện biểu đạt sẽ có xu hướng nghiên cứu giảm dần. Một phần bởi số lượng nghệ nhân thực hành trong lĩnh vực này mai một dần, hơn nữa, do bối cảnh xã hội thay đổi, nhu cầu mới xuất hiện, phương tiện kĩ thuật hiện đại hơn dần thay thế những phương tiện biểu đạt truyền thống, do đó, lĩnh vực ngữ văn dân gian, hay văn hoá ngôn ngữ sẽ ít được chú trọng tìm hiểu như trước đây.
Tiếp đó, các xu hướng nghiên cứu mới sẽ xuất hiện nhiều hơn, phản ánh thực tế khách quan là có những góc độ tiếp cận mới mẻ, quan điểm đa chiều trong nghiên cứu VHPVT hiện nay, giúp cho các nhà nghiên cứu mở rộng phạm vi tìm hiểu cũng như có sự trợ giúp, hỗ trợ của khoa học, kĩ thuật hiện đại, sẽ làm cho phương pháp nghiên cứu mới được thúc đẩy, kết quả nghiên cứu cũng có sự dịch chuyển nhanh hơn và đảm bảo tính khoa học, chính xác cao hơn, có tính ứng dụng, thiết thực hơn trong thực tế.
Những thách thức đối với việc thu thập dữ liệu
Do mục tiêu của IRCI là mở rộng các đối tác thành viên tại các quốc gia và mỗi quốc gia lại có thêm các đối tác thành viên mới là một trong những chủ trương rất đúng đắn, góp phần mở rộng mạng lưới và thu thập thêm nhiều dữ liệu về di sản văn hóa. Nhưng sau 02 năm (2020-2021) thực hiện đã xuất hiện những vấn đề mà chúng ta cần phải bàn thảo.
Thứ nhất, các đối tác thành viên tại Việt Nam hiện nay là các đơn vị sự nghiệp trực thuộc các cơ quan Nhà nước, vì vậy nguồn lực dành cho hợp tác quốc tế về văn hóa chủ yếu dựa vào nguồn tài trợ chứ không có nguồn đối ứng. Việc huy động nguồn lực (con người, thời gian và kinh phí) là rất khó khăn.
Thứ hai, với các hợp tác không trực tiếp - đối tác thành viên do VICAS mời - họ có thể từ chối hoặc tham gia không nhiệt tình.
Thứ ba, về nguồn nhân lực, phương tiện vật chất, cán bộ có trình độ, năng lực tổng hợp để đánh giá, dự báo xu hướng còn hạn chế.
Thứ tư, các kết quả đánh giá, dự báo phần nào đó không theo kịp tốc độ phát triển của các xu hướng nghiên cứu. Ở Việt Nam hiện nay, ít có các công trình, dự án thiên về đánh giá theo giai đoạn hay mục tiêu của đối tác chiến lược, đặc biệt là trong lĩnh vực nghiên cứu DSVHPVT.
Thứ năm, nền tảng cơ sở lý luận và thực tế có độ chênh lệch giữa các vùng miền và các thế hệ nhà nghiên cứu, thực tiễn này có thể góp phần làm chệch kết quả dự báo xu hướng.
Vì vậy, trong giai đoạn tiếp theo, VICAS và IRCI cần cân nhắc việc triển khai thực hiện dự án với các đối tác thành viên theo hướng hợp tác trực tiếp để đạt hiệu quả tốt nhất.
Kết luận
Chương trình hợp tác “Thu thập dữ liệu nghiên cứu bền vững để bảo vệ Di sản Văn hóa Phi vật thể ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương”, giữa IRCI với các viện nghiên cứu, trong đó có VICAS (từ năm 2019 đến 2021), đã đạt được thành quả bước đầu.
IRCI đã triển khai hợp tác với VICAS thực hiện dự án này vào năm 2019, nhằm thành lập một cơ chế mới cho việc thu thập dữ liệu. Việc này không những đảm bảo cho việc thu thập dữ liệu nghiên cứu mà còn khuyến khích một sự hiểu biết tốt hơn về Công ước năm 2003 và coi đó như một phương tiện trong việc bảo vệ và thúc đẩy nghiên cứu về DSVHPVT. Sau giai đoạn 1 của dự án, đối tác tham gia được kỳ vọng sẽ trở thành một đầu mối của đất nước họ nhằm mở rộng cơ chế hợp tác. Tất cả dữ liệu thu thập được sẽ đăng lên trang trực tuyến của “Cơ sở dữ liệu nghiên cứu của IRCI” (ở đường link: http://www.irci.jp/ichdb/), với mục tiêu chia sẻ rộng rãi các thông tin văn hóa bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau.
Kiến nghị từ phía Việt Nam: Một số đề xuất của VICAS để dự án thu thập dữ liệu về di sản văn hóa tại Việt Nam và các nước khác trong giai đoạn tiếp theo là:
- VICAS sẽ tiếp tục nhiệm vụ thu thập dữ liệu về các công trình nghiên cứu về di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam để tăng thêm nguồn dữ liệu các công trình nghiên cứu tại IRCI.
- VICAS đề xuất với IRCI nên cập nhật thêm dữ liệu về phim tư liệu khoa học, phim nhân học và ảnh tư liệu về di sản văn hóa phi vật thể các dân tộc Việt Nam và của các quốc gia khác nhằm quảng bá hình ảnh di sản văn hóa Việt Nam cũng như các quốc gia thành viên trên hệ thống của IRCI./.
P.L.O - V.D.T - N.T.H
_________________
1. Theo định nghĩa của UNESCO về di sản văn hoá phi vật thể. "Di sản văn hóa phi vật thể" như định nghĩa ở Mục 1, ngoài các lĩnh vực khác, được thể hiện ở những hình thức như trên [Mục 2. Điều 2. Công ước UNESCO 2003. https://ich.unesco.org/doc/src/00009-VI-PDF.pdf. tr 4].
Bình luận
Bài viết cùng chuyên mục