SAMAN GI¸O*
Hoµng Minh
Thuật ngữ saman giáo*
Saman giáo (shamanism) là một hệ thống tín ngưỡng bản địa tồn tại trong nhiều nền văn hoá, trong đó người đứng đầu hệ thống này là các thầy saman. Thuật ngữ saman có nguồn gốc từ tiếng Evenk (šaman) của bộ lạc Tungus, một bộ lạc nuôi tuần lộc ở Siberia. Từ šaman là biến thiên của từ samana trong tiếng Pali (tiếng sancrít là śramana), và được phần lớn các nhà phương Đông học chấp nhận (1).
Từ trước thế kỷ XIX, trong các ghi chép của mình, các nhà du lịch, những người truyền giáo và những nhà thám hiểm đã miêu tả các nghi lễ saman mang tính huyền bí, và những thầy saman có khả năng xuất hồn và nhập thần. Đến đầu thế kỷ XIX, thuật ngữ “saman giáo” được sử dụng rộng rãi để chỉ những hình thức xuất hồn, nhập thần ở những vùng khác nhau trên thế giới như Thái Bình Dương, châu Phi, Bắc, Đông và Nam Á, Úc, và một số vùng ở châu Mỹ và Siberia (2). Ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy hiện tượng xuất hồn và nhập thần tương tự ở nghi lễ then, pựt , mo, tào của người Tày, lễ yao của người Bru, một của người Thái, mỡi của người Mường, lập tịch, tết nhảy lửa của người Dao, lễ nhập hồn của người Chăm và đặc biệt là nghi lễ lên đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
Trong những nền văn hoá thực hành các nghi lễ saman giáo, tri thức huyền bí được cộng đồng những người thực hành, tín đồ cùng chia sẻ và một phần là tài sản bí truyền của nhóm người, cộng đồng đó. Tri thức này đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với vị thế của các thầy saman và được truyền từ người này sang người khác trong quá trình thụ giáo, truyền nghề. Các thầy saman lĩnh hội một vốn tri thức trong văn hoá dân gian, có một số kỹ năng riêng trong việc thực hành các nghi lễ, nắm được các quy tắc của nghi lễ và tuân thủ một số điều cấm kỵ trong đời sống và sinh hoạt hàng ngày (3).
Thầy saman
Những người thực hành các nghi lễ saman giáo thường bị "thôi thúc" hành nghề, thực hiện các nghi lễ với một mục đích nhất định để trở thành thân xác cho các vị thần thánh nhập, hoặc xuất hồn đi chu du sang những thế giới khác. Họ đóng vai trò làm trung gian giữa thế giới trần gian và thế giới thần thánh, giữa người sống và người chết, giữa loài vật và con người. Được phú cho khả năng đặc biệt và được sự hỗ trợ của các thần linh, thầy saman có nhiều vai trò trong xã hội và trong các nghi lễ tín ngưỡng tôn giáo. Họ có vai trò như là những thầy pháp trong những buổi tế lễ, hiến sinh, chữa bệnh tâm linh. Họ có thể làm thầy bói, lý giải các giấc mơ, làm các nghi lễ cầu phúc, cầu tài cầu lộc, các nghi lễ vòng đời, và nhiều hình thức nghi lễ bản địa khác. Họ có thể giúp cho cá nhân và cộng đồng tránh những rủi ro, và tránh bị làm hại (bùa chú, xua đuổi tà ma, quỷ ám). Trong quan niệm của những cộng đồng theo saman giáo, các thầy saman có khả năng vượt qua được ranh giới về mặt thời gian và không gian của thế giới trần tục, chu du vào thế giới siêu hình để liên lạc với thần thánh, hay tìm các vía bỏ đi (ví dụ Then của người Tày, Nùng). Đôi khi, thầy saman còn phục vụ cộng đồng trong những thời điểm có sự thay đổi như khi chuyển mùa, khi có chiến tranh, khi có nạn đói hoặc nạn dịch (Nguyễn Thị Hiền 1998).
Nói theo dân gian, thầy saman là những người “có căn số”, có phần khác với những tín đồ theo những tôn giáo chính thống khác. Một bộ phận các thầy saman nhập đạo, hành nghề mang tính bị động, không làm chủ được mình, do “tiếng gọi của thần thánh”, tức là có một sự thôi thúc ngoài bản thân họ và họ tin rằng đó là biểu hiện của việc được thần thánh chọn. Những thầy saman thuộc loại này, sau một thời gian hành nghề tích lũy được nhiều kinh nghiệm, lĩnh hội được một số quyền năng, thường trở thành thầy (đồng thầy, thầy cúng, thầy pháp). Những đệ tử có căn số nhẹ hơn, họ nhập đạo với hy vọng mọi việc trong đời sẽ thuận buồm xuôi gió. Những bậc thầy trong thực hành nghi lễ thường là những người có căn cơ số đầy, được thế lực siêu nhiên chọn lựa, thì họ gần như bắt buộc phải nhập đạo, thực hành nghi lễ, nếu không sẽ bị ốm đau và có thể bị tâm thần (Nguyễn Thị Hiền 2007, 2008).
Khi một người được các vị thần linh chọn thường có các triệu chứng như bỗng nhiên hay hồi hộp, xúc động, lãnh đạm, và bắt đầu hành động một cách lạ lùng. Người đó có thể mắc một chứng bệnh về thần kinh theo quan niệm thông thường, còn theo saman giáo thì đó là một dấu hiệu của việc được “thánh gọi”. Một số nhà nghiên cứu đã cho rằng những người bị “hành”, “bị thánh gọi” là những người bị bệnh tâm thần. Một số nhà nghiên cứu gán cho những thầy saman những triệu chứng quá khích (hysteria), tâm thần phân liệt (schizophrenia), hay là chứng động kinh (epilepsy) (4).
Những người mắc những triệu chứng như vậy đầu tiên thường chữa bằng thuốc Tây, khi không khỏi, họ hoang mang và tin rằng họ đã bị hành, bị thánh thần bắt nhập đạo. Với niềm tin sẽ khỏi bệnh, họ đến gặp các thầy pháp có quyền năng cao để hỏi ý kiến và xin làm lễ nhập đạo với hy vọng sẽ hết bị hành, có sức khoẻ tốt, tâm trạng bình thường. Nghi lễ nhập đạo là bắt buộc và đôi khi thật hà khắc. Người chịu lễ có thể phải nhảy vào nước lạnh, đi trên than nóng, ngồi trên bàn chông mà không bị thương. Những hành hạ về thể xác như vậy phục vụ một mục đích quan trọng: nghi lễ bề ngoài phản ánh tâm lý bên trong. Đó là tâm lý về nghiệp đạo, về việc họ là con nhà thánh và có chút quyền năng mang tính siêu nhiên mà người bình thường không thể có được. Đối với một số trường hợp bị ốm đau, nghi lễ nhập đạo này chính là một ca tự chữa bệnh đầu tiên của các thầy saman (xem Lewis 1971).
Những triệu chứng để trở thành thầy saman có liên quan tới niềm tin vào các huyền thoại, những giấc mơ, và những câu chuyện mang tính huyền bí, như bị thần thánh “hành”, bị ốm đau, bị thần kinh không rõ nguyên nhân. Đối với người Tungus, và nhiều tộc người khác, những người được/ bị thánh thần “chọn”, thường bị ốm lâu ngày. Trí tuệ của họ trở nên rối loạn, và có nhiều ảo tưởng rùng rợn (5). Họ có thái độ và hành động khó hiểu đối với những người xung quanh. Họ phải làm lễ nhập đạo, thực hành nghi lễ, và trở thành những người có khả năng tiếp xúc được với thế giới siêu nhiên. Sau khi thụ lễ nhập đạo, họ mới được coi là chính thức “làm ghế” cho các ngài “ngự” (Nguyễn Thị Hiền 2007).
Vẫn có nhiều quan điểm khác nhau về saman giáo. Từ góc độ nghiên cứu nhân học, nghi lễ saman đã được nghiên cứu khá nhiều và coi như là một hệ thống tri thức bản địa, nhân sinh quan của một tộc người. Trong khi đó, hiện tượng saman giáo ở một số nước vẫn còn là vấn đề nhạy cảm, bị cho là mê tín dị đoan, hoặc thầy saman là những người mắc chứng bệnh điên. Ở một số quốc gia, chẳng hạn ở Hàn Quốc, trước đây, nhà nước cấm thực hành nghi lễ saman, nhưng khoảng vài thập kỷ gần đây, nghi lễ này phát triển mạnh, trở nên ngày càng phổ biến và được nhà nước bảo trợ. Người Hàn Quốc đã từng xem thường hiện tượng này và coi nó là một hình thức mê tín dị đoan, thậm chí gán nó với những vấn đề tiêu cực trong xã hội, nhưng nay nghi lễ saman giáo ở Hàn Quốc đã trở thành một hiện tượng văn hoá tôn giáo, và được đưa vào danh sách bảo tồn di sản văn hoá của Hàn Quốc theo Luật Bảo vệ văn hoá (6).
Hiện nay ở phương Tây, các nhà nghiên cứu đều nhất trí rằng những thầy saman không phải bị điên. Có những công trình cho rằng nhóm thầy saman là những người có đặc điểm cá nhân riêng, và hoàn toàn bình thường về mặt tâm sinh lý. Nhìn chung, cách nhìn nhận về đối tượng này đã thay đổi từ những người không bình thường về tâm lý thành những người có năng lực đặc biệt, có quyền năng, và thực hành những nghi lễ quan trọng có lợi cho cá nhân và cộng đồng (7). Trong khi đó, một số công trình nghiên cứu ở Nga vẫn nói về tâm lý không bình thường của những thầy saman.
Ngày nay, từ góc độ chức năng văn hóa, việc đánh giá vai trò của các thầy saman cũng được nhìn nhận lại. Trong sách Trạng thái xuất nhập thần và chữa bệnh ở Đông Nam Á ngày nay, tác giả Ruth-Inge Heinze đã nghiên cứu vai trò và chức năng của nhiều loại người hành lễ khác nhau ở Đông Nam Á. Ông đưa ra định nghĩa các thầy saman là “những người đáp ứng nhu cầu cần thiết đặc biệt của cộng đồng. Họ làm trung gian điều đình giữa những trạng thái khác nhau của ý thức cho những người tìm kiếm kinh nghiệm riêng trực tiếp về các lực lượng siêu nhiên. Thầy saman đáp ứng nhu cầu thực dụng, sinh lý cũng như là tâm lý và tâm linh” (8). Nói một cách khác, một đặc tính cơ bản của thầy saman là có khả năng rơi vào trạng thái xuất nhập thần (ecstasy hoặc trance), nghĩa là có thể thoát hồn vào không trung, và trong khi thoát hồn có thể gọi thần thánh nhập vào cơ thể, và có chức năng đáp ứng một số nhu cầu tâm linh của bản thân và của những thành viên khác trong cộng đồng.
Saman giáo và lên đồng
Thuật ngữ mediumship hay spirit possession (lên đồng) được sử dụng ở châu Phi, cộng đồng người Do Thái châu Phi (đặc biệt là Brazin và vùng Caribbean), Trung Đông, Thái Bình Dương, Nam và Đông Nam châu Á. Thuật ngữ này chỉ những nghi lễ, mà trong đó có một vị thần tạm thời nhập vào “thân xác” của người hành nghề. Trong thời gian thần nhập, lời nói và hành động của thầy đồng được tin rằng do thần linh thực hiện, không phải của người trần thế. Đôi khi, họ “diễn”, nhưng cũng có khi họ không tự điều chỉnh được, mà do các thánh thần sai khiến và họ không có khả năng cưỡng lại. Các vị thần linh thường là các vị thần bản địa, hoặc là tổ tiên, một nhân vật lịch sử hiển thánh theo tín ngưỡng dân gian và hiển linh về để giúp hậu thế, hoặc một nhân vật trong huyền thoại, truyền thuyết, một người chết thiêng có thể nhập hồn vào những ông đồng, bà đồng, v.v...
Trong học thuật, saman giáo bao trùm cả hình thức xuất hồn và nhập thần. Nhưng có một số nhà nghiên cứu phân biệt sự khác biệt cơ bản giữa saman giáo và lên đồng. Trong các nghi lễ saman giáo, thầy saman tự hát, ngâm nga, đánh nhạc cụ khi làm lễ, còn những người lên đồng chỉ thực hiện các động tác nghi lễ (nhảy múa, làm các động tác “bắt chước” các vị thánh nhập), theo nội dung và nhạc của người hát và chơi nhạc cụ. Trong nghiên cứu, từ “saman” theo nghĩa ban đầu của nó chỉ người hành lễ có khả năng thoát hồn đến thế giới vô hình hay đi xuống địa ngục, đánh nhau với quỷ dữ, và giúp cộng đồng tránh tai họa rủi ro (xem Rouget 1980). Ngày nay, những hình thức xuất hồn chu du vào thế giới siêu nhiên, và đôi khi có thánh thần nhập trong khi hành lễ, chẳng hạn như hát then của người Tày gọi là saman giáo, còn những hình thức chỉ có nhập thần thì gọi là lên đồng như trong thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ của người Việt (Nguyễn Thị Hiền 1998, 2007).
Saman giáo ngày nay được nghiên cứu như là một hệ thống tín ngưỡng tôn giáo, tồn tại bên cạnh các tôn giáo khác. Là một hình thức tín ngưỡng ra đời từ rất sớm, linh động, thích nghi với những bối cảnh mới, thu nạp những yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo khác vào trong các thực hành nghi lễ của mình. Saman giáo còn là một hiện tượng mang tính xã hội, và là điểm hội tụ của ba lĩnh vực - tâm lý, xã hội, và tôn giáo. Trong hệ thống niềm tin tín ngưỡng, thầy saman có khả năng vượt qua sự đối nghịch giữa hai thái cực (nam/nữ, người/loài vật, người/thần thánh, sống/chết). Thầy saman cũng có thể vượt qua ranh giới của không gian và thời gian như trong thần thoại, giấc mơ và các hiện tượng tâm linh khác. Những hình thức thực hành nghi lễ mang tính huyền bí này đang tồn tại trong hệ thống tín ngưỡng của nhiều tộc người trên thế giới, như thể duy trì cái vô lý để đối nghịch với cái duy lý (có thể giải thích bằng kiểm chứng). Saman giáo mang tính hư vô, bí truyền, và có một số tương đồng với hệ thống đạo giáo ở phương Đông./.
H.M
___________________
* Một số thông tin trong bài này dựa trên số liệu của bài viết của tác giả: “Một số quan niệm và quá trình nghiên cứu saman giáo”. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 6, 2000, tr. 94-99.
1. Vitebsky, Piers (1997), “What is a Shaman?” (Thế nào là một thầy saman?), In trong tạp chí Natural History. 3/97, tr. 34-5.
Eliade, Mircea, 1951/1964. Le chamanisme et les technique archaique de l’extase, tái bản lần thứ hai năm 1969. Paris: Payot. Dịch sang tiếng Anh xuất bản năm 1964. Shamanism: Archaic Techniques of Ecstasy (Saman giáo: Kỹ thuật xuất nhập thần cổ sơ). Bollingen Series LXXVI. Pantheon Books, tr. 495.
2. Barnard, Alan và Spencer, Jonathan biên tập (1998), Encyclopedia of Social and Cultural Anthropology (Từ điển bách khoa về Nhân loại học xã hội và văn hoá). London & New York: Routledge, tr. 504-507.
3. Pentikainen, Juha (1998), Shamanism (Shaman giáo). In trong Folklore: An encyclopedia of Beliefs, Customs, Tales, Music, and Art (Văn hóa dân gian: Bách khoa toàn thư về tín ngưỡng, tập quán, chuyện kể, âm nhạc và nghệ thuật). Green, Thomas A. chủ biên. Santa Barbara, ABC-Clio, tr. 764-767.
4. Larsen, Stephen (1998), The Shaman’s Doorway: Opening Imagination to Power and Myth (Con đường của thầy saman: Trí tưởng tượng ban đầu về lực lượng siêu nhiên và thần thoại). Rochester, Vermont.
5. Larsen (1998), sđd, tr. 41.
6. Atkinson, Jane Monnig (1992), “Shamanism Today” (Saman giáo ngày nay). Annual Review of Anthopology 21, tr. 315-316.
7. Barnard và Spencer biên tập (1998), sđd, tr.505.
8. Heinze, Ruth-Inge (1988), Trance and Healing in Southeast Asia Today (Trạng thái xuất nhập thần và chữa bệnh ở Đông Nam Á ngày nay). White Lotus Co., Bankok, Thailand Independent Scholars of Asia, Inc., Berkeley, tr. 24.
Tài liệu tham khảo khác
1. Lewis, I. M. (1971), Ecstatic Religion: An Anthropological Study of Spirit Posession and Shamanism (Tôn giáo xuất nhập thần: Nghiên cứu nhân loại học về lên đồng và saman giáo). Harmondsworth: Penguin Books.
2. Nguyễn Thị Hiền (1998), Then in Tày Traditional Culture and Soul-Calling Ritual (Then trong văn hoá truyền thống của người Tày và nghi lễ gọi vía). Luận án Thạc sĩ. Bloomington: Indiana University.
3. Nguyễn Thị Hiền (2007), “‘Seats for Spirits to Sit Upon:’ Becoming a Spirit Medium in Contemporary Vietnam (Bắc ghế cho các ngài ngồi: “Trở thành ông đồng bà đồng ở Việt Nam đương đại). Journal of Asian Studies, số 3, tr. 541-558.
4. Nguyễn Thị Hiền (2008), “Yin Illness: Its Diagnose and Healing within Len Dong (Spirit Possession) Rituals of the Việt” (Bệnh âm: Chẩn đoán và chữa bệnh trong nghi lễ lên đồng của người Việt). Asian Ethnology, số 2, tr. 305-322.
5. Rouget, Gilbert (1980), La musique et la transe: Esquisse d’ une theogie general des relations de la musique et de la possession (Â m nhạc và trạng thái xuất nhập thần: Phác thảo một lý thuyết chung về mối quan hệ giữa âm nhạc và lên đồng), Nxb. Editions Gallimard. Brunhilde Biebuyck dịch sang tiếng Anh với sự hợp tác của tác giả với tiêu đề Music and Trance. Chicago: Universtity of Chicago Press, 1985.
Nguồn: Tạp chí Văn hóa học số 6 (22) - 2015
Bình luận
Bài viết cùng chuyên mục