SÁNG TẠO RA TRUYỀN THỐNG
Eric Hobsbawm
Không có gì nhuốm sắc màu cổ kính nhiều hơn và vương vấn một quá khứ ngàn xưa hơn những lễ tiết rườm rà xoay quanh chế độ quân chủ vương quốc Anh. Ấy thế mà, những phô trương phù phiếm đó, ở dạng thức hiện đại của chúng, thực tế lại là sản phẩm của cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Những “truyền thống” có vẻ ngoài cổ xưa hoặc tự cho là cổ xưa thường có nguồn gốc khá gần đây và có khi còn được sáng tạo ra. Bất kỳ ai hiểu biết một chút về các trường đại học Anh quốc xa xưa hẳn có thể nghĩ đến các thiết chế “truyền thống” này ở phạm vi một địa phương, cho dù một số trong nhóm đó - như Lễ hội Chín Bài giảng và Khúc thánh ca tổ chức hàng năm trong ngôi nhà thờ nhỏ thuộc trường King College ở Cambridge vào đêm Giáng sinh - có thể được biết đến rộng rãi hơn qua đài phát thanh. Quan sát này đã tạo nên xuất phát điểm cho một hội nghị do tạp chí khoa học lịch sử Quá khứ & Hiện tại (Past & Present) tổ chức, và từ đó lại tiếp tục xây dựng nền tảng cho cuốn sách này.
Thuật ngữ “truyền thống được sáng tạo” được sử dụng theo một nghĩa rộng, tuy nhiên không hẳn là thiếu chính xác. Nó bao gồm những “truyền thống” thực tế đã được sáng tạo ra, được xây dựng thành, được hợp thức hóa; và bao gồm cả những gì đang nhen nhóm theo một lối khó truy nguyên hơn, trong một khoảng thời gian ngắn và dễ xác định niên đại hơn - cứ cho là trong vòng vài năm chẳng hạn - nhưng lại có khả năng định hình nhanh chóng hơn trong tiềm thức cộng đồng. Bản phát thanh Giáng sinh của hoàng gia tại Anh (được hợp thức hóa vào năm 1932) là một ví dụ của dạng “truyền thống” thứ nhất; trong khi sự xuất hiện và phát triển của những thực hành gắn liền với chung kết tranh cúp Liên đoàn Bóng đá Anh, lại thuộc vào nhóm “truyền thống” thứ hai. Hiển nhiên là không phải tất cả những “truyền thống” này đều vĩnh cửu như nhau, nhưng ở đây, chúng ta quan tâm đến hình thức và sự ra đời chứ không phải khả năng tồn tại của chúng qua thời gian.
“Truyền thống được sáng tạo” được hiểu là một tập hợp những thực hành, thường nằm dưới sự chi phối của những luật lệ thành văn hay bất thành văn, có bản chất nặng tính nghi thức hoặc hình tượng, nhằm khắc sâu các giá trị và tiêu chuẩn hành vi nhất định vào tâm thức cộng đồng qua hình thức tái diễn, đồng thời ngụ ý một dòng chảy tiếp nối từ quá khứ. Thực tế là, nếu có thể, thì các “truyền thống” này thông thường vẫn cố gắng tạo lập liên kết với một quá khứ lịch sử phù hợp. Một ví dụ điển hình là việc lựa chọn có chủ ý một dạng kiến trúc Gôtích để tái xây dựng tòa nhà Nghị viện Anh, so với một quyết định có chủ ý không kém, được đưa ra sau Thế chiến thứ hai, về việc xây lại phòng nghị viện theo sơ đồ phác thảo giống y hệt ngày trước. Cái quá khứ lịch sử được viện đến để kết nối một truyền thống mới vào không nhất thiết phải vươn quá dài, phải xuyên qua tấm màn sương khói của thời gian. Những cuộc cách mạng và các “phong trào tiến bộ”, tuy theo định nghĩa là bứt khỏi quá khứ, nhưng thực ra cũng sở hữu một quá khứ riêng, có điều cái quá khứ ấy có thể đã được phân tách khỏi dòng chảy chính ở một mốc thời gian nhất định, ví như năm 1789 chẳng hạn. Tuy nhiên, trong phạm vi của những liên hệ với một quá khứ lịch sử như đã nói ở trên, thì cái riêng biệt của những truyền thống “qua sáng tạo” nằm ở chỗ, mối liên kết được nói đến thực tế là nhân tạo. Nói ngắn gọn hơn, thì chúng là những phản ứng đối với các tình huống mới phát sinh, những phản ứng hoặc mang hình thức của sự liên hệ đến các tình huống cũ, hoặc tự tạo lập quá khứ của riêng mình qua phương pháp tái diễn gần như là bắt buộc. Chính quan hệ đối lập giữa sự thay đổi và đổi mới thường trực của xã hội hiện đại với cố gắng cấu trúc hóa ít nhất phần nào đời sống xã hội, để thiết lập những trụ cột bất biến trong toàn bộ guồng quay đã khiến cho việc "sáng tạo truyền thống” có được một sức hấp dẫn nhất định đối với các nhà sử học của hai thế kỷ vừa qua.
“Truyền thống” theo nghĩa này cần phải được tách bạch ra khỏi khái niệm “phong tục” vốn vẫn chi phối cái mà người ta gọi là các xã hội “truyền thống” cổ xưa. Cái đối tượng và đặc trưng của các “truyền thống”, bao gồm cả những truyền thống hình thành qua sáng tạo, là sự bất biến. Cái quá khứ, thực hay được sáng tạo ra, luôn ấn định những thực hành mặc định (thường đã được hợp thức hóa), ví dụ như sự tái diễn một điều gì đó. “Phong tục” trong các xã hội truyền thống có đảm nhiệm một chức năng kép, vừa là động cơ vừa là bánh đà. Cho dù đến một mức nào đó, khái niệm ấy không loại trừ khả năng cải tiến và thay đổi, thì bản thân việc yêu cầu nó giữ được vẻ tương thích, hay thậm chí là đồng nhất với các tiền lệ cũng đã áp đặt lên đó những giới hạn đáng kể rồi. Những gì nó làm là tạo điều
kiện cho bất kỳ sự thay đổi mong muốn nào (hoặc sự phản đối đổi mới) một căn cứ mang tính khế ước về một sự tiếp nối xã hội, tiền lệ và quy luật tự nhiên, như được thể hiện trong lịch sử. Sinh viên tham gia các phong trào nông dân biết rõ rằng chuyện một làng nào đó tuyên bố quyền sở hữu của họ đối với một mảnh đất công, hay quyền, “căn cứ vào phong tục từ thời thượng cổ”, đa phần không phản ánh một sự thật lịch sử, mà thể hiện sự cân bằng giữa các thế lực tham gia cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ giữa dân làng và lãnh chúa, hoặc giữa các làng với nhau. Sinh viên tham gia phong trào lao động vương quốc Anh hiểu rằng, những “tục lệ buôn bán” hoặc tục lệ của cửa hàng có thể không phản ánh những truyền thống xa xưa mà chẳng qua chỉ là sự thể hiện bất cứ quyền lợi nào đang có của công nhân dù gần đây, cái mà họ cố gắng mở rộng ra, hoặc bảo vệ, là bằng cách xác nhận một khế ước để công nhận sự tồn tại dài lâu của nó. “Phong tục” không được phép đóng vào cổ mình cái gông bất biến, bởi vì ngay cả trong các xã hội “truyền thống” cuộc sống cũng đâu phải là không đổi suốt muôn đời. Những luật tục hay lệ chung vẫn thường cho thấy một kết hợp linh hoạt giữa bản chất và sự tuân thủ các tiền lệ. Theo cách hiểu của chúng ta thì ở đây điểm khác biệt giữa “truyền thống” và “phong tục” thực sự đã được minh họa rõ ràng. Nếu “phong tục” là những gì người thẩm phán thực hiện; thì “truyền thống” (hay trong trường hợp cá biệt này là truyền thống được sáng tạo) là bộ tóc giả, tấm áo chùng, là những vật dụng bất ly thân khác cùng những nghi thức thực hành xoay quanh hành động đáng kể đó. Bởi vậy, chuyện sự suy giảm tất yếu của một “phong tục” gây ảnh hưởng dây chuyền đến cái “truyền thống” mà nó gắn bó với là không thể tránh khỏi.
Một điểm khác biệt thứ hai, kém quan trọng hơn một chút, mà chúng ta phải đề cập đến, là sự khác nhau giữa “truyền thống” theo cách hiểu vừa rồi, và khái niệm “quy ước” hay “lề lối”, tuy không sở hữu chức năng nghi thức hay tượng hình đáng kể nào, nhưng có khi ngẫu nhiên mà đạt được một chức năng như vậy. Rõ ràng là bất kỳ một thực hành xã hội nào, nếu cần được thực hiện đi thực hiện lại, đều sẽ có xu hướng tự phát triển nên một tập hợp những quy ước và lề lối như thế, vừa để cho thuận tiện vừa để tăng hiệu suất. Những quy ước và lề lối ấy có thể được hợp thức hóa về mặt lý thuyết hay trên thực tế, để phục vụ việc truyền bá thực hành này đến những thành viên mới. Quan sát này vừa đúng với các thực hành chưa từng có (ví như công việc của một phi công trên máy bay), vừa đúng cả với những thực hành đã quen. Xã hội từ thời kỳ cách mạng công nghiệp, một cách tự nhiên, thường phải gánh bổn phận sáng tạo, hợp thức hóa, hoặc phát triển những mạng lưới mới các quy ước và lề lối như vậy nhiều hơn hẳn các xã hội xưa kia. Bởi những quy ước và lề lối này thực hiện chức năng có hiệu quả nhất khi chúng trở thành thói quen, thủ tục tự động hoặc thậm chí là hành động phản xạ, trong chúng đòi hỏi phải có một sự bất biến nhất định, một tính chất không đổi mà trên phương diện khác lại có thể cản trở cái điều kiện tất yếu còn lại của thực hành - ở đây muốn nói đến khả năng xử lý những tình huống bột phát, ngoài dự kiến, ngoài thông lệ bình thường. Đây cũng là một điểm yếu nổi tiếng của quá trình quy trình hóa hay quan liêu hóa, đặc biệt nổi cộm ở các cấp thấp hơn, nơi mà hiệu suất bất biến lại thường được đánh giá cao nhất.
Những mạng lưới quy ước và lề thói ấy không phải là “truyền thống được sáng tạo”, bởi chức năng của chúng, và theo đó là lý lẽ biện minh cho sự tồn tại của chúng, thuộc về phạm trù kỹ thuật chứ không phải phạm trù tư tưởng (theo thuật ngữ của những người Marxít thì chúng thuộc “hạ tầng” hơn là “kiến trúc thượng tầng”). Những mạng lưới ấy được thiết kế để tạo điều kiện thuận lợi cho các thao tác thực tiễn dễ dàng được định nghĩa và cũng nhanh chóng được chỉnh sửa hoặc đào thải để thích nghi với những nhu cầu thực tế đang đổi thay hàng ngày, luôn luôn chừa chỗ cho cái trì trệ mà bất kỳ thực hành nào cũng thu nạp được khi thời gian qua, và cho cả sự kháng cự tinh thần đối với cải cách từ phía những người đã gắn bó lâu dài với hệ thống cũ. Điều tương tự cũng đúng với các “luật chơi” được công nhận, hay bất kỳ mẫu hình tương tác xã hội nào, nơi những mạng lưới này tồn tại, hoặc đúng với bất kỳ định mức thực dụng nào khác. Khi những mạng lưới như vậy tồn tại trong cùng một tập hợp với “truyền thống”, điểm khác biệt cũng trở nên dễ thấy hơn. Chuyện đội mũ cứng khi cưỡi ngựa rõ ràng có ý nghĩa thiết thực, cũng như chuyện đội mũ bảo hiểm xe máy cho người lái mô-tô hay đội mũ thép rèn cho lính tráng vậy; nhưng việc đội một kiểu mũ cứng nhất định, phối hợp với việc mặc áo săn màu đỏ tươi, lại cấu thành nên một ý nghĩa hoàn toàn khác. Nếu không phải như vậy, thì việc thay đổi bộ trang phục “truyền thống” của những thợ săn cáo sẽ trở nên dễ dàng chẳng kém gì chuyện thay thế một kiểu mũ sắt có dáng hoàn toàn khác vào quân đội - vốn đều là những thiết chế xã hội khá bảo thủ - nếu có thể chứng minh được là cái mới có hiệu quả bảo vệ cao hơn. Thực vậy, có thể nói rằng giữa “truyền thống” và định mức thực dụng tồn tại một mối quan hệ nghịch đảo. Có thể thấy ngay điểm yếu của “truyền thống” khi xem xét chuyện những cấm kỵ ăn uống trong cộng đồng Do Thái tự do được biện hộ theo hướng thực dụng, y như việc người Do Thái cổ cấm thịt lợn vì lý do vệ sinh. Ngược lại, có những vật thể hoặc thực hành, khi được giải phóng khỏi các ứng dụng thực tế, lại trở nên đắc dụng cho các ứng dụng hình tượng và nghi thức. Những chiếc đinh thúc ngựa trên bộ đồng phục của người sĩ quan kỵ binh hóa ra quan trọng hơn hẳn đối với “truyền thống” khi lũ ngựa vắng mặt, những chiếc ô của lính canh bảo vệ mất đi ý nghĩa khi chúng không được xếp chặt lại theo thể thức (có nghĩa là ở thế hoàn toàn bị động và vô dụng), rồi những bộ tóc giả của các luật sư cũng khó mà có sức nặng biểu tượng như hiện nay nếu những công dân khác không ngừng hẳn chuyện đội tóc giả.
Ở đây ta giả định rằng, sáng tạo truyền thống về bản chất là một quá trình hợp thức hóa và nghi thức hóa được đặc trưng bởi những liên hệ với quá khứ, cho dù điều này chỉ có thể thực hiện bằng cách áp đặt hành động tái diễn. Thực tế mà nói, quy trình thực sự cần tuân thủ để tạo ra những phức hợp lễ nghi và hình tượng như vậy vẫn chưa được các nhà sử học nghiên cứu thỏa đáng. Đa phần quá trình đó vẫn còn là một dấu hỏi lớn. Có lẽ một quy trình như thế được minh họa rõ ràng nhất trong trường hợp một “truyền thống” được một người đi đầu duy nhất sáng tạo ra và xây thành với dụng ý nhất định, ví dụ như Baden-Powell với việc khởi xướng truyền thống nam hướng đạo sinh. Có thể một quy trình như thế gần như là dễ truy nguyên tương tự trường hợp các nghi lễ được hợp thức hóa chính thống và cấu trúc chặt chẽ, bởi những “truyền thống” như vậy thường được ghi chép tỉ mỉ, ví dụ như quá trình xây dựng hệ thống hình tượng cho đảng Nazi, và các cuộc phô trương thanh thế của đảng này ở Nuremberg. Có lẽ các truyền thống ấy trở nên khó truy nguyên nhất khi một phần của chúng là do sáng tạo mà có, một phần lại hình thành nên trong các hội nhóm tách biệt (nơi mà toàn bộ quá trình ít có khả năng được ghi chép thành hệ thống hơn), hoặc lại phát triển một cách không chính thức qua một thời kỳ, nói ví dụ như trong nghị viện hay trong nghề luật chẳng hạn. Khó khăn trong nghiên cứu mà chúng ta gặp phải ở đây không chỉ là chuyện truy nguyên, mà còn là vấn đề kỹ thuật, cho dù phải thừa nhận rằng có tồn tại những khoa thuật bí truyền chuyên về hệ thống hình tượng và nghi thức, ví như nghiên cứu về huy hiệu hoặc những nghiên cứu về nghi thức tế lễ, cũng như có ngành lịch sử thuộc trường phái Warburg (Đức) chuyên nghiên cứu những vấn đề này. Điều không may là thông thường chẳng có gì trong số đó là quen thuộc với những sử gia thời kỳ công nghiệp cả.
Có lẽ chẳng có một khoảng không gian và thời gian nào được các nhà sử học quan tâm đến mà lại chưa từng trải qua một quá trình “sáng tạo” truyền thống, theo nghĩa này. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên chấp nhận rằng quá trình này sẽ diễn ra với tần suất ngày càng gia tăng, khi một biến đổi xã hội diễn ra trong thời gian quá ngắn làm yếu đi hay tiêu hủy hoàn toàn những mô hình xã hội cũ vốn tương thích với các truyền thống cũ, rồi từ đó tạo ra những mô hình mới mà đối với chúng các truyền thống cũ nói trên không còn phù hợp nữa; hoặc khi những truyền thống cũ đó cùng những phương tiện vận tải và truyền bá đã được hợp thức hóa của chúng không còn đủ sức thích nghi và biến đổi linh hoạt nữa, hoặc đã bị đào thải trên một phương diện khác: nói ngắn gọn hơn là, khi có những thay đổi đủ lớn và đủ nhanh từ bên cung hoặc bên cầu. Những thay đổi đó đặc biệt quan trọng trong vòng 200 năm vừa qua, và vì thế có thể hiểu được những sự hợp thức hóa các truyền thống mới diễn ra nhanh chóng trong khoảng thời gian này. Ngẫu nhiên là, điều này cũng ngầm ý đối lập với cả chủ nghĩa tự do thế kỷ XIX và các lý thuyết “hiện đại hóa” gần đây hơn, nghĩa là đối lập với những học thuyết cho rằng những quá trình hợp thức hóa nói trên không chỉ bị hạn chế trong khuôn khổ cái gọi là những xã hội “truyền thống”, mà cũng có chỗ đứng riêng của chúng, trong dạng thức này hay dạng thức khác, ở những xã hội “hiện đại” hơn. Nói rộng ra thì đúng là như vậy, nhưng chúng ta cũng nên cẩn trọng với việc đặt ra thêm những giả định khác, đầu tiên là ý nghĩ rằng các hình thức lâu đời hơn của cộng đồng và những cấu trúc quyền lực, và kết quả là những truyền thống gắn bó với chúng, đều không có khả năng thích nghi và nhanh chóng bị triệt tiêu; thứ hai, cũng không nên quá tin tưởng vào giả định rằng các truyền thống “mới” chỉ là kết quả đơn thuần của sự bất lực trong việc áp dụng hoặc biến hóa thích nghi các truyền thống cũ.
Sự thích nghi được thực hiện cho cách sử dụng cũ được áp dụng vào các hoàn cảnh mới và bằng cách sử dụng các mô hình cũ cho những mục đích mới. Những thiết chế cũ mang trong mình các chức năng mặc định, liên hệ đến quá khứ, các nghi thức thực hành và phương thức đặc trưng có thể đều đã phải thích nghi theo cách này: nhà thờ Công giáo khi đối diện với những thách thức chính trị và tư tưởng mới, cùng với những thay đổi lớn lao trong thành tố các tín đồ (ví dụ như sự xuất hiện ngày càng nhiều của nữ giới trong các cộng đồng vốn chỉ bao gồm nam giới, đơn cử như cộng đồng giáo dân và giới mục sư) (1); các quân đội chuyên nghiệp đối mặt với chế độ cưỡng bách tòng quân; các thiết chế xã hội lâu đời như các tòa án pháp luật giờ phải hoạt động trong một bối cảnh khác xưa và có khi mang những chức năng đã thay đổi trong các bối cảnh mới. Các thiết chế xã hội khác cũng vậy, dù trên danh nghĩa có được thụ hưởng dòng chảy tiếp nối đi chăng nữa, thực tế có khi còn biến hóa thành một thực thể khác xa với ban đầu, như hệ thống các trường đại học chẳng hạn. Nghiên cứu chính mảng này, Bahnson (2) đã phân tích sự suy giảm đột ngột, sau năm 1848, về thực hành truyền thống (vì lý do xung đột hay biểu tình), trong số đông sinh viên ở các trường đại học Đức đặt trong bối cảnh bản chất học thuật đã biến đổi của các trường đại học, độ tuổi ngày càng tăng của cộng đồng sinh viên, quá trình tư sản hóa vốn đã giải trừ những căng thẳng giữa lối trang phục thị trấn và nông thôn cùng cái bát nháo của sinh viên nói chung, một thiết chế xã hội mới cho phép đi lại tự do giữa các trường đại học, những thay đổi hệ lụy về cấu trúc các hiệp hội sinh viên và một số tác nhân khác (3). Trong tất cả các trường hợp nêu trên, kể cả khi cái mới có khả năng vẽ vời thêm thắt hoa hòe hoa sói y như cái cũ, thì cái mới cũng chẳng vì vậy mà bớt mới đi chút nào.
Đáng chú ý hơn, từ quan điểm của chúng ta, là việc sử dụng các nguyên liệu cổ để xây dựng nên các truyền thống được sáng tạo từ một dạng tiểu thuyết cho những mục đích rất tiểu thuyết. Một lượng lưu trữ lớn những nguyên liệu như vậy luôn tích tụ lại trong quá khứ của bất kỳ xã hội nào, và thứ ngôn ngữ tinh vi của thực hành trừu tượng cùng giao liên thì luôn sẵn có. Đôi khi các truyền thống mới có thể được nhào nặn ra dễ dàng dựa trên nền truyền thống cũ, đôi khi chúng lại có thể được cấu thành bằng cách vay mượn từ những “kho chứa” dân gian luôn luôn sẵn hàng, nơi lưu trữ những lễ nghi chính thống, hệ thống hình tượng và nền tảng cổ vũ đạo đức - ví như tôn giáo và những thứ phù hoa, văn học dân gian và hội Tam điểm (bản thân đó cũng là một truyền thống được sáng tạo từ trước vẫn mang nặng quyền năng hình tượng). Như vậy, quá trình phát triển chủ nghĩa dân tộc Thụy Sĩ, diễn ra đồng thời với sự hình thành quốc gia liên bang hiện đại ở thế kỷ XIX đã được Rudolf Braun (4) dày công nghiên cứu. Ông có lợi thế là người được đào tạo trong một chuyên ngành quan tâm đặc biệt với những vấn đề tương tự (“Văn hóa dân gian”*, và trong một đất nước nơi quá trình hiện đại hóa chưa bị những mối liên hệ chính trị với đảng Nazi cải lùi. Những phong tục tập quán truyền thống hiện có – ví dụ như các bài dân ca, các hội thi thể thao, thi tài thiện xạ - được sửa đổi đi, lễ nghi hóa và hợp thức hóa để phục vụ các mục đích mới mang tầm cỡ quốc gia. Những bài dân ca truyền thống được bổ sung bằng những khúc hát mới có cùng giai điệu thường do hiệu trưởng các trường sáng tác rồi được chuyển giao thành một bản giao hưởng có nội dung yêu nước - hành tiến (“Nước ta, Nước ta, nghe như một bản hùng ca”; cho dù sự thể hiện này cũng chứa những yếu tố nặng tính nghi lễ mượn từ sáng tác thánh ca. (Quá trình sáng tác những bản hợp xướng như đã nói, đặc biệt dành cho các học đường, là một đề tài nghiên cứu đáng chú ý). Những quy chế của Lễ hội Ca nhạc Liên bang - hẳn chúng ta đều được gợi nhớ đến lễ hội văn hóa nghệ thuật biểu diễn Eisteddfod của xứ Wales? - tự tuyên bố rằng đối tượng của nó là “sự phát triển và cải tiến trong ca hát của nhân dân, sự thức giấc của các tình cảm thăng hoa hơn dành cho Chúa, Tự do và Tổ quốc, sự đoàn kết và liên hợp của những người đồng môn về Nghệ thuật và đồng hương nơi quê nhà” (Từ “cải tiến” ở đây nắm bắt được tinh thần của khái niệm tiến bộ thế kỷ XIX). **
Một tổ hợp mang tính nghi lễ mạnh được hình thành xung quanh các dịp này: lều bạt hội trại, các cách thức trưng bày cờ phướn, đền thờ để đặt lễ, những đám rước, chuyện kéo chuông, vô vàn hoạt cảnh, cảnh bồng súng chào, các đoàn đại biểu chính phủ đến vinh danh lễ hội, cơ man nào các bàn yến tiệc, những lần cạn ly chúc mừng và các bài diễn thuyết hào sảng. Thêm một lần nữa, những nguyên liệu cũ lại được biến thiên vạn hóa để thích ứng với hoàn cảnh mới này: "Những tiếng vọng từ thời kỳ Baroque về cách thức kỷ niệm, trưng bày và phô trương hiển hiện rõ ràng đến mức không nhầm lẫn được trong cấu trúc lễ hội mới mẻ này. Và cũng tương tự như đã thấy ở những buổi tiệc tùng ăn mừng kiểu Baroque, nhà nước và tôn giáo hòa nhập với nhau trên một mặt bằng cao hơn, vậy nên một thứ hợp kim của các nguyên tố lễ nghi và ái quốc đã bắt đầu nhen nhóm từ các dạng thức hoạt động hợp xướng, thiện xạ và thể thao mới mẻ này" (5).
Có điều, chuyện những truyền thống mới có thể sử dụng được các nguyên vật liệu cũ đến đâu bằng cách thiên biến vạn hóa như đã nói, và đến đâu thì chúng bị dồn vào thế phải sáng tạo ra những ngôn ngữ mới hoặc phương tiện mới, hay phải mở rộng khối từ vựng trừu tượng sẵn có vượt qua khỏi những giới hạn cố định, lại không phải là việc có thể đưa ra bàn luận ở đây được. Hẳn điều này đã quá rõ ràng, rằng cơ man những thiết chế chính trị, những phong trào tư tưởng và hội nhóm – không chỉ trong phạm vi chủ nghĩa dân tộc – đều thiếu thốn tiền lệ đến mức ngay cả dòng chảy tiếp nối lịch sử cũng cần được tái tạo, như là tạo ra một quá khứ xa xưa vượt quá tầm tiếp nối lịch sử hiệu quả, hoặc qua các tác phẩm bán viễn tưởng (Boadicea, Vercingetorix, Arminius người xứ Cherusci hoặc nguyên tác giả mạo (Ossian), hoặc các bản thảo Séc thời trung cổ). Hẳn ta đã tỏ tường rằng những phương tiện và biểu tượng hoàn toàn mới đi vào hiện hữu bằng cách trở thành một phần của những phong trào quốc gia và dân tộc, ví dụ như bản quốc ca (trong số đó dường như bản quốc ca Anh năm 1740 là ra đời sớm nhất), lá quốc kỳ (đa phần vẫn là một biến thể của lá cờ ba màu cách mạng Pháp, tiến triển hơn vào thời kỳ 1790-1794), hay sự nhân cách hóa “dân tộc” trong hình tượng hoặc hình ảnh, có khi chính thống, như trong trường hợp Marianne và Germania, có khi không chính thống như thấy ở những miêu tả hoạt hình rập khuôn của nhân vật John Bull, Chú Sam người vùng Yankee mảnh dẻ, và cả chàng “Michel nước Đức” nữa.
Chúng ta cũng không nên bỏ qua những đứt gẫy trong dòng chảy nối tiếp, những hiện tượng có khi còn hiển thị rõ ràng ngay trong những hệ quy chiếu truyền thống bao hàm sự cổ kính nguyên bản. Nếu chúng ta hiểu được những gì Lloyd nói (6) thì người ta đã ngừng sáng tác những khúc ca dân gian mừng Giáng sinh nước Anh vào thế kỷ XVII, và thay thế chúng bằng các bản thánh ca theo sách kiểu Watts-Wesley, dù ta có thể nhận thấy chúng đã được bình dân hóa trong các dòng tôn giáo đa phần nông thôn như phong trào Giám Lý Nguyên thủy (một giáo phái ở nước Anh). Tuy vậy, thể loại ca mừng vẫn là dạng ca nhạc dân gian đầu tiên được những nhà sưu tầm trung lưu phục dựng để đưa vào vị trí chính đáng của chúng ở “những khuôn viên mới mẻ của nhà thờ, phường hội và các học viện dành cho nữ giới”, để rồi từ đó lan truyền sang một bối cảnh đô thị quần chúng, “qua những nghệ sĩ lang thang góc hè hay những cậu bé ca hát khản giọng trên ngưỡng cửa các nhà với niềm hy vọng cũ kỹ là được thưởng công”. Theo nghĩa này, bản God rest ye merry, gentlemen (tạm dịch: Xin Chúa lòng lành cho ta an vui, thưa các quý ngài) không phải được lưu truyền từ cổ xưa mà là một sáng tạo cận đại. Một bước ngắt quãng như thế còn rõ ràng hơn trong bối cảnh các phong trào mà những người tiên phong cố tình miêu tả chính họ là “những nhân vật truyền thống chủ nghĩa”, và kêu gọi những nhóm hội mà ai nấy cũng đồng thuận rằng họ là cội nguồn dòng chảy tiếp nối lịch sử và truyền thống, như những người nông dân vậy (7). Thực vậy, chính sự xuất hiện của những phong trào củng cố hay phục dựng truyền thống, cho dù dưới danh nghĩa “truyền thống chủ nghĩa” hay không, vẫn cho thấy một khoảng đứt gãy ấy. Các phong trào như vậy, vốn phổ biến trong giới học giả kể từ thời chủ nghĩa Lãng mạn, không bao giờ có thể phát triển thêm hay thậm chí là bảo tồn một quá khứ đang sống (trừ phi theo kiểu dễ hình dung được là tạo ra những khu bảo tồn tự nhiên của loài người, dành cho những góc tách biệt của đời sống cổ xưa), nhưng phải trở thành “truyền thống được sáng tạo”. Mặt khác, cần chú ý để không nhầm lẫn sức sống và tính dẻo dai của những truyền thống nguyên bản với “quá trình sáng tạo truyền thống”. Nơi nào lối sống cũ vẫn tồn tại hưng thịnh, thì truyền thống không cần phục dựng cũng chẳng cần sáng tạo thêm để làm gì.
Tuy vậy, có thể đề xuất nhận xét rằng nơi nào truyền thống được hình thành qua sáng tạo, thì thường không phải do nơi đó không còn duy trì được những lối xưa, mà bởi những lối xưa ấy bị lãng quên, không vận dụng, không biến đổi để thích nghi, một cách hữu ý chứ không phải vô tình bỏ mặc. Vì thế, khi chủ tâm đặt mình vào thế đối lập với truyền thống và ủng hộ những cải cách triệt để, thì cái tư tưởng tự do chủ nghĩa của thế kỷ XIX về biến đổi xã hội, về mặt hệ thống, đã không thể cung cấp nhiên liệu duy trì những quan hệ xã hội và quyền lực vốn bị xem nhẹ trong các xã hội trước, và đồng thời tạo ra những khoảng trống mà rất có thể phải dựa vào những thực hành qua sáng tạo mới có thể lấp đầy. Thành công của những ông chủ nhà máy thuộc Đảng Bảo thủ thế kỷ XIX tại Lancashire (khác hẳn với các ông chủ nhà máy thuộc Đảng Tự do) khi vận dụng có hiệu quả những quan hệ xưa cũ này cho thấy rằng những lối cũ vẫn còn nguyên đó chờ người vận dụng - ngay cả trong cái môi trường thiếu vắng tiền lệ của thị trấn công nghiệp (8). Chuyện sự thiếu thích nghi của những lối sống tiền công nghiệp đối với một xã hội cách mạng hóa đã vượt quá một mốc nhất định đương nhiên là không thể phủ nhận, nhưng cũng không thể bị nhầm lẫn với những vấn đề nảy sinh từ việc đào thải nhất thời những lối sống cũ bởi tay những ai coi chúng là trở ngại cho tiến bộ, hay còn tệ hơn, là những kẻ thù hiếu chiến.
Điều này không hề ngăn cản những nhà đổi mới bắt tay kiến tạo những truyền thống được sáng tạo của riêng họ - những thực hành của hội Tam điểm là một ví dụ điển hình. Tuy nhiên, một thái độ thù địch nói chung đối với chủ nghĩa phi lý, mê tín và những phong tục thực hành còn vương quá khứ đen tối xưa, nếu không muốn nói là trực tiếp bắt nguồn từ đó, đã khiến những người tin tưởng cuồng nhiệt vào những chân lý của thời kỳ Khai sáng, thí dụ như những người tự do chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, không hào hứng mấy trong việc đón nhận các truyền thống dù là cũ hay mới. Các nhà xã hội chủ nghĩa, như ta sẽ thấy sau đây, chợt nhận ra mình có một ngày nghỉ tháng năm mà không thực sự hiểu tại sao; những người theo chủ nghĩa quốc xã thì khai thác triệt để những dịp như vậy với một sự tinh tế chỉ thấy trong các nghi thức tế lễ, nhiệt huyết và sự cố tình thao túng các biểu tượng (9). Thời kỳ tự do chủ nghĩa ở vương quốc Anh khoan dung hơn cả đối với những thực hành ấy, miễn sao là cả hệ tư tưởng lẫn hiệu quả kinh tế đều không gặp trở ngại, và có khi sự khoan dung ấy lại là sự dằn lòng nhượng bộ khi đối diện cái phi lý chủ nghĩa của những tầng lớp dưới. Thái độ của thời kỳ này đối với những hoạt động xã giao và mang tính nghi thức của các Hội Phúc lợi là sự kết hợp của tính thù địch (“những chi phí không cần thiết” như “thanh toán cho các lễ kỷ niệm, diễu hành, ban nhạc, biểu trưng” bị cấm hoàn toàn theo luật định), cùng với chút nhân nhượng dành cho các sự kiện như hội hè thường niên dựa trên cơ sở là “tầm quan trọng của mối quan tâm này, đặc biệt mang nghĩa tôn trọng dân chúng vùng quê, là không phủ nhận được” (10). Nhưng một thứ chủ nghĩa duy lý cực đoan và nặng tính cá nhân đã thống trị hoàn toàn, không chỉ như một phép tính giải tích kinh tế mà còn như một lý tưởng xã hội.
Những lời dẫn này đến đây đã có thể tạm kết lại bằng một số quan sát tổng thể về những truyền thống được sáng tạo của thời kỳ kể từ cuộc cách mạng công nghiệp.
Dường như chúng thuộc về ba dạng gối lên nhau: a) những truyền thống được sáng tạo nhằm thiết lập hoặc biểu trưng cho tính gắn kết xã hội hay cho tư cách hội viên của nhóm hội, của những cộng đồng có thực hay tưởng tượng, b) những truyền thống được sáng tạo nhằm thiết lập các thiết chế xã hội, địa vị hay các quan hệ quyền lực, và c) những truyền thống được sáng tạo mà mục đích chính là giáo dục xã hội hóa để khắc sâu những tín ngưỡng, hệ thống giá trị và quy ước hành xử. Trong khi các truyền thống thuộc loại b và c rõ ràng là được sáng tạo nên (tương tự như ở những gì tượng trưng cho sự tuân phục quyền uy ở Ấn Độ dưới thời Anh đô hộ), có thể đưa ra giả thiết rằng dạng thức a là thịnh hành, các chức năng khác được coi là ẩn vào hay hòa theo, bắt nguồn từ một thái độ tự đồng nhất với một “cộng đồng” và/hay các thiết chế xã hội đại diện cho, biểu hiện ra, hoặc tượng trưng cho cộng đồng đó, ví như một “quốc gia” vậy…
Một khó khăn ở đây là những thực thể xã hội lớn hơn như vậy, nói trắng ra, không phải là cộng đồng* hay thậm chí còn không phải là những hệ thống chức vị được công nhận. Tính linh động xã hội, những thực tế của xung đột giai cấp và tư tưởng thịnh hành đương đại khiến cho những truyền thống kết hợp cộng đồng và sự bất bình đẳng giai cấp trong các hệ thống phân tầng cấp bậc chính thống (như trong quân đội chẳng hạn) lâm vào thế khó mà phổ cập được. Điều này lại không ảnh hưởng mấy đến các truyền thống loại c bởi quá trình xã hội hóa tổng quát khắc ghi những giá trị giống nhau vào tâm khảm mỗi công dân, mỗi thành viên của một quốc gia đồng thời cũng là thần dân của hoàng gia, và những quá trình xã hội hóa mang chức năng cụ thể của những nhóm xã hội khác nhau (như các học sinh trường công lập so với những học sinh khác) thường không cản trở lẫn nhau. Mặt khác, tuy những truyền thống được sáng tạo đã và đang đưa khái niệm địa vị quay lại một thế giới đồng thuận, hay thượng cấp và hạ cấp vào một thế giới của những người bình đẳng theo pháp luật, nhưng chúng lại không thể thực hiện được điều này một cách trực tiếp. Những khái niệm đó có thể được đưa lậu vào qua sự đồng thuận tượng trưng chính thống đối với một tổ chức xã hội mà trên thực tế là bất công, ví như chuyện tái định hình nghi thức đăng quang của Hoàng gia Anh vậy (11). Thường thấy hơn, chúng có thể bồi dưỡng cảm giác thượng đẳng tập thể của giới ưu tú – đặc biệt khi những nhân vật này lại cần được tuyển dụng từ số đông những ai không có sẵn ưu thế, dù là có được nó qua dòng dõi sinh học hay được ai khác gán cho - thay vì khắc ghi một cảm giác phục tùng trong giới hạ lưu. Một số còn được khuyến khích là nên thấy mình bình đẳng hơn người khác. Có thể thực hiện điều này bằng cách đồng hóa giới ưu tú với các nhóm lãnh đạo hay nhà chức trách tiền tiểu tư sản, cho dù là theo dạng thức quân đội/quan liêu đặc trưng tại Đức (như với những đoàn hội sinh viên đấu tay đôi) hay theo kiểu mẫu “hạng người đạo đức hóa” bất quân sự của các trường công vương quốc Anh. Một phương án khác là phát triển tinh thần đồng đội*, tự tin cá nhân và khả năng lãnh đạo của giới ưu tú qua những “truyền thống” bí truyền đánh dấu sự gắn kết của một chính thể quan liêu chính thống cấp cao (như ở Pháp hay giữa những người da trắng sinh sống tại các thuộc địa).
Cứ cho là các truyền thống được sáng tạo kiểu “công xã” thuộc dạng cơ bản đi, thì bản chất của chúng vẫn đáng nghiên cứu như thường. Nhân học có thể giúp làm sáng tỏ những khác biệt, nếu có, giữa những truyền thống được sáng tạo và những thực hành truyền thống lâu đời. Ở đây chúng ta chỉ có thể lưu ý rằng cho dù các nghi thức vòng đời thông thường vẫn được đánh dấu trong dòng truyền thống của các nhóm nhất định (kết nạp, thăng cấp, nghỉ hưu, về cõi vĩnh hằng), trường hợp này thường không đúng với các nghi thức vòng đời được thiết kế riêng cho các giả cộng đồng bao gồm tất cả (dân tộc, quốc gia), cõ lẽ bởi chúng nhấn mạnh tính chất vĩnh cửu bất biến vốn có - ít nhất là từ thuở sơ khai của cộng đồng nêu trên. Tuy nhiên, cả những chế độ chính trị mới và các phong trào cải cách có lẽ đều nhằm tìm kiếm những bản tương đương với các nghi thức vòng đời truyền thống vốn gắn bó với tôn giáo (hôn nhân dân sự, đám tang) để áp dụng cho riêng mình.
Ở đây ta có thể quan sát thấy một điểm khác biệt rõ ràng giữa những thực hành lâu đời và được sáng tạo. Trong khi dạng thứ nhất là những thực hành xã hội cụ thể và có tính ràng buộc mạnh mẽ, thì dạng thứ hai lại khá mông lung và không rành mạch nếu nói đến bản chất các giá trị, quyền lợi và bổn phận của cái tư cách thành viên nhóm hội mà chúng nhằm khắc ghi: “tinh thần yêu nước”, “trung tín”, “nghĩa vụ”, “chơi đúng kiểu”, “truyền thống nhà trường” và những điều tương tự. Nhưng nếu nội dung của tinh thần yêu nước của vương quốc Anh hay “chủ nghĩa Mỹ” có được định nghĩa quá tồi đi chăng nữa, dù chúng thường được chỉ rõ trong các bài tường thuật liên quan đến các dịp lễ nghi, thì những thực hành tượng trưng cho nó hầu như vẫn đậm tính bắt buộc – như thấy được trong việc đứng lên hát quốc ca tại vương quốc Anh hay nghi thức kéo và hạ cờ ở các trường học Mỹ vậy. Yếu tố quyết định dường như chính là quá trình sáng tạo ra những biểu tượng mang nặng tính tượng trưng và thấm nhuần tình cảm tượng trưng cho tư cách thành viên nhóm hội, chứ không phải là những quy chế và đối tượng của nhóm hội đó. Tầm quan trọng của chúng nằm trong chính tính phổ quát không định hình đó: "Lá quốc kỳ, bản quốc ca và tấm quốc huy là bộ ba biểu tượng mà qua đó một đất nước độc lập khẳng định bản sắc cùng chủ quyền, và như vậy họ có đủ tư cách yêu cầu tức thời sự tôn trọng cùng lòng trung thành. Về cá nhân, chúng phản ánh toàn bộ phông nền, tư tưởng và văn hóa của một quốc gia" (12).
Theo nghĩa này, một nhà quan sát đã ghi chép lại vào năm 1880 rằng, “giờ những người lính và cảnh sát đeo phù hiệu giúp chúng ta”, cho dù tác giả này không tiên đoán được sự phục hưng của những biểu tượng ấy để bổ trợ cho từng cá nhân công dân trong thời đại các phong trào quần chúng đang rậm rịch bắt đầu (13).
Quan sát thứ hai cần lưu ý đến là có thể thấy rõ rằng, mặc nhiều quá trình sáng tạo đã và đang diễn ra, các truyền thống mới chưa lấp đầy được quá một phần nhỏ cái khoảng trống do sự giảm sút trường kỳ của những truyền thống xa xưa cùng phong tục để lại. Và thực tế ta có thể chờ đợi điều này ở những xã hội nơi quá khứ càng ngày càng ít liên quan đến hiện tại với tư cách một hình mẫu hay một tiền lệ cho hầu hết các dạng thức hành vi của con người. Trong đời sống riêng tư của hầu hết mọi người, và trong cuộc sống khép kín của các nhóm văn hóa nhỏ, ngay cả những truyền thống được sáng tạo của thế kỷ XIX và XX cũng đã chiếm đóng hoặc đang chiếm đóng một vị trí nhỏ hơn nhiều so với vị trí mà các truyền thống cũ đã từng chiếm giữ trong, nói ví như, các xã hội nông nghiệp cũ (14). “Những điều được thực hiện” cấu trúc hóa những ngày, mùa và vòng đời của nam giới và nữ giới Tây phương thế kỷ XX ở một mức thấp hơn nhiều so với những gì chúng đã làm được cho tổ tiên của họ, và có ảnh hưởng ít hơn hẳn những gì các khiên cưỡng ngoại diên của nền kinh tế, của công nghệ, tổ chức nhà nước quan liêu, quyết định chính trị và những ngoại lực khác, mà vốn chẳng dựa vào cũng chẳng phát triển “truyền thống” theo cách hiểu của chúng ta.
Tuy nhiên, nhận xét khái quát này không áp dụng được vào khía cạnh có thể gọi là đời sống công khai của người công dân (bao gồm đến một mức nào đó, cả những dạng thức xã hội hóa công cộng như các trường học, khác biệt hẳn với những dạng thức xã hội hóa riêng tư như phương tiện truyền thông đại chúng). Thực ra không có một dấu hiệu thật sự nào cho thấy rằng những thực hành cận truyền thống liên quan đến lượng người làm việc trong ngành dịch vụ quần chúng (lực lượng vũ trang, pháp luật, có lẽ cả những công chức nữa) hoặc đến những thực hành khác liên hệ tới tư cách thành viên nhà nước của các công dân. Thực vậy, hầu hết các dịp mà con người ta có ý thức rõ ràng về tư cách công dân như thế vẫn còn liên quan chặt chẽ với các biểu tượng và những thực hành bán nghi thức (ví dụ như các cuộc bầu cử), đa phần đều còn mới về mặt lịch sử và phần lớn được sáng tạo nên: cờ phướn, hình ảnh, nghi lễ và âm nhạc. Những gì các truyền thống được sáng tạo của thời đại từ cuộc cách mạng công nghiệp và cách mạng Pháp đã làm được trong nhiệm vụ lấp đầy được một khoảng trống vĩnh hằng - tại tất cả mọi sự kiện tính đến thời điểm hiện tại - có lẽ đều đã diễn ra trong phạm vi lĩnh vực này.
Cuối cùng ta cũng có thể buông câu hỏi rằng, vậy tại sao các nhà sử học lại nên dành sự chú ý của mình vào những hiện tượng như vậy? Câu hỏi này theo một nghĩa nào đó là không cần thiết, bởi có một con số ngày càng gia tăng cho thấy là họ đơn giản vẫn luôn luôn chú tâm vào đó, như nội dung ấn phẩm này và các tài liệu tham khảo đã dẫn có thể làm chứng. Vậy nên câu hỏi này cần được sắp xếp lại. Các sử gia có thể đạt được những lợi ích gì khi nghiên cứu quá trình sáng tạo truyền thống?
Trước tiên và trước nhất, ta có thể đề xuất một nhận xét rằng nghiên cứu này là quan trọng bởi chính những truyền thống đó là những triệu chứng quan trọng và vì thế cũng là kim chỉ nam cho những vấn đề mà nếu thiếu chúng thì có lẽ sẽ không được nhận diện, và cho những bước phát triển mà nếu thiếu chúng thì hẳn sẽ khó nhận dạng và định niên hơn. Chúng chính là chứng cứ. Quá trình biến đổi của chủ nghĩa dân tộc Đức từ cái gốc tự do chủ nghĩa xưa kia đến kiểu mẫu đế quốc - bành trướng mới mẻ sẽ trở nên sáng tỏ và chính xác hơn qua sự thay thế nhanh chóng ba màu đen-đỏ-vàng kim vốn có bằng loạt màu đen-trắng-đỏ (đặc biệt đến những năm 1890) trong phong trào thể dục thể thao Đức, hơn là khi xem xét qua những bản bố cáo chính thức của giới cầm quyền hay người phát ngôn cho các tổ chức. Lịch sử của những trận chung kết cúp bóng đá vương quốc Anh kể ta nghe điều gì đó về quá trình phát triển của một thứ văn hóa giai cấp lao động ở đô thị mà những nguồn tài liệu và dữ liệu nặng tính quy ước hơn không chuyển tải được. Cũng chính nhờ bằng chứng đó, ta có thể thấy việc nghiên cứu các truyền thống được sáng tạo là không thể tách rời khỏi việc nghiên cứu trên phạm vi lớn hơn về lịch sử xã hội, và cũng không thể trông đợi việc nghiên cứu các truyền thống được sáng tạo phát triển được quá cái khám phá đơn thuần ra những thực hành như vậy, trừ phi những nghiên cứu đó được kết hợp với một nghiên cứu trên diện rộng hơn.
Thứ hai là, công việc nghiên cứu này làm rõ một cách đáng kể mối quan hệ con người với quá khứ, và như thế là làm rõ cả chủ thể và kỹ xảo của nhà sử học. Đối với tất cả các truyền thống được sáng tạo, nếu có thể dùng lịch sử làm trung gian hợp pháp hóa hành động và làm thứ xi măng gắn kết nhóm hội thì nên tận dụng càng lâu càng tốt. Càng thường xuyên, nó bắt đầu trở thành biểu tượng thực sự của tranh đấu, như trong những trận đánh giành các tượng đài của Walther von der Vogelweide và Dante ở Nam Tyrol năm 1889 và 1896 (15). Ngay những phong trào cách mạng cũng bọc hậu những cải cách của họ bằng cách dẫn chứng một “quá khứ của nhân dân” (người Saxon đối chọi người Norman, “tổ tiên Gô-loa của chúng ta” đối chọi tộc người Franks, Spartacus), rồi đến một hệ thống các truyền thống cách mạng (“Những người dân Đức có truyền thống cách mạng của họ” (như Engels đã tuyên bố ngay những dòng đầu cuốn Chiến tranh nông dân tại Đức (Peasant War in Germany (16) và viện tới cả những anh hùng cùng liệt sĩ nêu danh trong đó nữa. Cuốn Lao động trong lịch sử Ai len (Labour in Irish History) của James Connolly đã minh họa bằng ví dụ một cách hoàn hảo liên hợp chủ đề này. Nhân tố sáng tạo ở đây đặc biệt rõ ràng, bởi cái lịch sử mà sau này trở thành một phần khối kiến thức hoặc tư tưởng của cả dân tộc, quốc gia hay phong trào thực ra lại không phải là những gì được lưu giữ trong tâm khảm quần chúng, mà thật sự lại là những gì đã được tuyển lựa, viết thành văn, hình dung, phổ biến và hợp thức hóa qua bàn tay những ai được giao bổn phận thực hiện điều này. Các sử gia truyền miệng đã nhận xét thường xuyên là trong hoài niệm thực sự của người già, cuộc đình công tổng quát năm 1926 có một vai trò khiêm tốn và ít nghẹt thở hơn là những người đi phỏng vấn đã mong đợi (17). Sự hình thành một bức tranh như vậy về cuộc cách mạng Pháp trong lòng và bởi tay Đệ tam Cộng hòa Pháp cũng đã được phân tích (18). Tuy vậy tất cả các nhà sử học, bất kể có mục đích khác nào, cũng đều can dự đến quá trình này bởi họ cống hiến, dù có ý thức hay không, cho sự sáng tạo ra, dỡ bỏ và tái cấu trúc những hình dung của quá khứ, những hình dung không chỉ thuộc về thế giới nghiên cứu chuyên môn mà còn nằm trong không gian công cộng nơi con người là một thực thể chính trị nữa. Vậy nên các nhà sử học có lẽ cũng nên biết đến khía cạnh này của các hoạt động của họ.
Trong mối liên kết này, cần tách lẻ ra một mối quan tâm cụ thể về “truyền thống được sáng tạo” dành cho các nhà sử học hiện đại và đương thời ở mọi sự kiện. Những truyền thống đó có quan hệ rất mật thiết với cải cách lịch sử tương đối cận đại ấy, khái niệm “dân tộc”, với các hiện tượng liên quan: chủ nghĩa dân tộc, quốc gia dân tộc, biểu tượng dân tộc, lịch sử dân tộc và tất thảy những gì còn lại. Tất cả những điều nói trên dựa vào những vận động cơ động xã hội vốn thường diễn ra hữu ý và luôn luôn mang tính đổi mới, bởi sự mới mẻ trong lịch sử bao giờ cũng ám chỉ cải tiến. Chủ nghĩa dân tộc hay chính bản thân các quốc gia Israel và Palestine hẳn cũng là mới mẻ, bất kể dòng chảy tiếp nối lịch sử của người Do Thái hay Hồi giáo Trung Đông ra sao, bởi ngay cái khái niệm vùng miền lãnh thổ mà hiện tại khu vực của họ đặt làm tiêu chuẩn thậm chí còn chưa thành hình vào một thế kỷ trước, và chưa hẳn đã trở thành một viễn cảnh đáng lưu tâm trước kết thúc Thế chiến thứ nhất. Những ngôn ngữ chuẩn quốc gia, được một bộ phận nhỏ giới ưu tú học và viết nghiêm túc trong các trường, mà không được nói rộng rãi, thường được cắt tỉa xây dựng nên từ những thời kỷ ngắn ngủi nhưng đa dạng. Như một sử gia Pháp nói tiếng Flemish đã quan sát nhận xét khá là chính xác, thứ tiếng Flemish được giảng dạy tại Bỉ ngày nay không phải là thứ ngôn ngữ mà các bà các mẹ người Flanders nói với con cháu mình: nói gọn lại, đó chỉ là thứ tiếng “mẹ đẻ” theo nghĩa
bóng chứ không phải nghĩa đen. Chúng ta không nên để một nghịch lý tuy kỳ lạ nhưng có thể hiểu được dẫn mình đi sai đường: các dân tộc hiện đại và những lý thuyết bất di bất dịch đi kèm thường tuyên bố mình là đối lập với cái mới mẻ, có nghĩa là tự phân mình vào lớp địa tầng cổ xưa nhất, và còn coi mình là đối lập với cái được kiến tạo thành, cụ thể là những cộng đồng người quá “tự nhiên” đến mức không cần một định nghĩa nào khác hơn là sự tự khẳng định mình. Bất kể dòng chảy tiếp nối lịch sử hay gì khác - những dòng chảy mà không ai mong muốn phủ nhận - có ăn sâu trong khái niệm hiện đại về “Pháp” và “người Pháp” thế nào, chính bản thân những khái niệm này bắt buộc phải bao gồm một thành tố được kiến tạo hay “sáng tạo”. Và chỉ vì cơ man là phần của khối chủ quan làm nên “dân tộc” hiện đại đều bao hàm cả những kiến trúc như vậy và liên quan đến những biểu tượng phù hợp và nói chung là khá cận đại hoặc những luận đề thiết kế phù hợp (như “lịch sử dân tộc” chẳng hạn), một hiện tượng quốc gia như thế không thể được nghiên cứu tỉ mỉ mà không chú tâm đến quá trình “sáng tạo truyền thống”.
Cuối cùng phải nói rằng, nghiên cứu về quá trình sáng tạo truyền thống là một nghiên cứu liên ngành. Đó là một lĩnh vực nghiên cứu có thể đem các nhà sử học, các nhà nhân học và những người làm việc trong các lĩnh vực khác của ngành khoa học nhân văn xích lại gần nhau, và nếu thiếu những cộng tác như vậy thì không thể tiếp tục theo đuổi công việc tương xứng./.
(Nguyễn Hoàng Nhị Hà dịch,
TS. Bùi Hoài Sơn hiệu đính)
__________________________
1. Xem, ví dụ như, G. Tihon, “Các nữ tu tại Bỉ trong thời kỳ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX: phương pháp tiếp cận thống kê”, đăng ở tạp chí khoa học Lời bình Bỉ: Lịch sử hiện đại, tập vii, 1976, tr. 1-54. (“Les religieuses en Belgique du XVIIIe au XXe siècle: Approche Statistique”, Belgisch Tijdschrift v. Nieuwste Geschiedenis/Revue Belge d’ Histoire Contemporaine).
2. Karsten Bahnson, Akademische Auszỹge aus deustchen Universitọts und Hoschulorten (Saarbrỹcken, 1973).
3. Theo ghi chép, có cả thảy 17 cuộc di cư học thuật như vậy trong thế kỷ XVIII, 50 cuộc trong giai đoạn 1800-1848, nhưng chỉ có 6 cuộc trong khoảng 1848-1973.
4. Rudolf Braun, Biến đổi xã hội và văn hóa trong một khu vực công nghiệp nông thôn vào thế kỷ XIX và XX, chương 6 (Sozialer und kultureller Wandel in einem lọndlichen Industriegebiet im 19. und 20. Jahrhundert), Erlenbach-Zỹrich, năm 1965.
5. Trích Rudolf Braun, sđd, tr. 336-337.
6. Tức A. L. Lloyd, Dân ca ở nước Anh (London, 1996), tr. 134-138.
7. Cần phân biệt quá trình này với quá trình phục dựng truyền thống mà thực tế mang mục đích chứng minh sự mai một của nó. “Việc những người nông dân (trong khoảng 1900) tái dựng lại phục trang vùng miền của họ, những điệu múa và các nghi thức tương tự trong những dịp hội hè đình đám thực chất không phải là một nét tiểu tư sản cũng không phải là một nét truyền thống. Trên bề mặt, đó có thể coi là một nỗi mong nhớ hoài cổ về nền văn hóa một thời xa xưa đang biến mất nhanh chóng, nhưng thực tế đó là một cuộc biểu dương, đem ra trưng bày bản sắc tầng lớp xã hội mà qua đó giới nông dân giàu có có thể tách mình ra theo chiều thớ ngang tương đối với dân thị trấn và theo chiều dọc thớ với nông dân sống trong trại, thợ thủ công và người lao động chân tay.” (Palle Ove Christiansen, “Có phải chăng những người nông dân theo đòi văn hóa tiểu tư sản? Sự hình thành giai cấp và Tái định nghĩa văn hóa ở vùng quê Đan Mạch”, Dân tộc học vùng Scandinavi (Ethnologia Scandinavica), 1978, tr. 128. Xem cả G. Lewis, “Tầng lớp nông dân, những thay đổi miền đồng quê và chính sách cải cách ruộng đất bảo thủ: vùng đồng bằng nước Áo vào thời điểm chuyển giao thế kỷ”, Quá khứ và Hiện tại (Past and Present), số 81 (1978), tr. 119-143.
8. Patrick Joyce, “Guồng quay nhà máy ở Lancashire vào cuối thế kỷ XIX”, Tạp chí Khoa học Lịch sử (Historical Journal), xviii (1965), tr. 525-553.
9. Helmut Hartwig, “Mảng bám tháng năm 1934-1939” (“Plaketten zum l. Mai 1934-1939”), Thẩm mỹ và Truyền thông (Aesthetik und Kommunikation), vii, số 26 (1976), tr.56-59.
10. P. H. J. H. Gosden, Các Hội Hảo tâm tại Anh quốc, 1815-1875 (The Friendly Societies in England, 1815-1875), Manchester, 1961, tr. 123, 119.
11. J. E. C. Bodley, Lễ đăng quang của Edward thứ mười bảy: một chương lịch sử Âu châu và đế quốc (The Coronation of Edward the VIIth: A Chapter of the European and Imperial History) (London, 1903), tr.201, 204.
12. Lời tường thuật chính thức của chính phủ Ấn Độ, như đã dẫn ở R. Firth, Biểu tượng, Công cộng và Riêng tư (Symbols, Public and Private), London, 1973, tr. 341.
13. Frederick Marshall, Những điều kỳ lạ của Nghi thức, Danh vị, Trang trí và Dạng thức của những Phù hoa Quốc tế (Curiosities of Ceremonials, Titles, Decorations and Forms of International Vanities), London, 1880, tr. 20.
14. Chưa kể đến sự biến đổi của những nghi thức và biểu tượng đoàn kết cùng gắn bó lâu đời thành những thói thời thượng thay đổi nhanh chóng – trong phục trang, trong ngôn ngữ, trong thông lệ thực hành xã hội, v.v… như có thể thấy trong các văn hóa giới trẻ ở các nước công nghiệp hóa.
15. John W. Cole và Eric Wolf, Vùng biên ẩn giấu: Sinh thái học và Tính cách sắc tộc ở một thung lũng vùng núi Alps (The Hidden Frontier: Ecology and Ethnicity in an Alpine Valley), N.Y. và London, 1974, tr. 55.
16. Để thấy được sự phong phú của những sách viết về đề tài này và các đề tài lịch sử quân đội khác trong các thư viện của công nhân Đức, xem H. J. Steinberg, Chủ nghĩa xã hội Đức và dân chủ xã hội: các hệ tư tưởng của Đảng trước Thế chiến thứ nhất (Sozialismus und deutsche Sozialdemokratie. Zur Ideologie der Partei vor dem ersten Weltkrieg), Hanover, 1967, tr. 131-133.
17. Có những lý do hoàn toàn tin được về chuyện tại sao những người tham dự ở dưới đáy xã hội không có chung quan điểm về những sự kiện lịch sử mà họ đã trải qua với những người thuộc hàng lãnh đạo hay sử gia. Người ta có thể gọi hiện tượng này (đặt theo tên người anh hùng trong tác phẩm Chartreuse de Parme của Stendhal) là “Hội chứng Fabrice” (“Fabrice Syndrome”).
18. Ví dụ Alice Gérard, Cuộc cách mạng Pháp: Thần thoại và Lý giải (La Révolution Franỗaise: Mythes et Interprétations, 1789-1970), Paris, 1970.
Nguồn: Tạp chí Văn hóa học số 1 + 2 - 2012
Bình luận
Bài viết cùng chuyên mục